Thuế hộ kinh doanh: Cần tính theo lợi nhuận, không chỉ áp trên doanh thu

Thời gian đọc: 9 phút
Dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân sửa đổi đề xuất mức miễn thuế cho hộ kinh doanh có doanh thu dưới 200 triệu đồng/năm. Tuy nhiên, các chuyên gia cảnh báo, chỉ dựa vào doanh thu để tính thuế sẽ thiếu công bằng, bởi doanh thu cao chưa hẳn tương ứng với lợi nhuận thực tế.

Vì vậy, cần xây dựng công thức tính thuế dựa trên lợi nhuận ròng, khấu trừ chi phí hợp lý và chia theo số lao động trong gia đình, nhằm đảm bảo “đánh thuế theo khả năng nộp thuế, không đánh thuế vào sinh kế”. 

Ngưỡng chịu thuế 200 triệu là bất bình đẳng

Dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) đã được Chính phủ trình Quốc hội, với kế hoạch điều chỉnh và bổ sung toàn bộ 35 điều của luật hiện hành, đồng thời thay thế hoàn toàn luật hiện nay.

Một nội dung đáng chú ý là dự thảo đề xuất mức doanh thu 200 triệu đồng/năm sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân (TNCN). Đây cũng là mức doanh thu mà hộ kinh doanh sẽ được miễn thuế giá trị gia tăng (VAT) và thuế TNCN khi chuyển từ hình thức khoán sang tự kê khai nộp thuế, bắt đầu áp dụng từ ngày 1/1/2026.

Thuế hộ kinh doanh: Cần công thức tính theo lợi nhuận, không chỉ doanh thu.

Theo đó, nhóm hộ kinh doanh có doanh thu từ 200 triệu đồng đến dưới 3 tỷ đồng/năm sẽ được tính thuế trực tiếp trên doanh thu theo mức thuế suất phân theo từng lĩnh vực. Cụ thể, hoạt động phân phối và cung cấp hàng hóa áp dụng thuế suất 0,5%; dịch vụ và xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu là 2%. Các hoạt động cho thuê tài sản, đại lý bảo hiểm, đại lý xổ số và bán hàng đa cấp chịu thuế 5%.

Nhóm sản xuất, vận tải, dịch vụ gắn với hàng hóa và xây dựng có bao thầu nguyên vật liệu áp dụng mức 1,5%. Những sản phẩm và dịch vụ nội dung số như trò chơi điện tử, phim, ảnh, nhạc hay quảng cáo chịu thuế 5%, còn các ngành nghề khác là 1%. Còn đối với hộ kinh doanh có doanh thu hơn 3 tỷ đồng/năm, thuế thu nhập cá nhân được tính 17% trên tổng lợi nhuận.

Theo ông Nguyễn Văn Được – Tổng giám đốc Công ty TNHH Kế toán và tư vấn thuế Trọng Tín, ngưỡng doanh thu chịu thuế từ 200 triệu đồng với hộ kinh doanh là bất bình đẳng khi so sánh với người làm công ăn lương. Theo ông, doanh thu miễn thuế nên được tính bằng giá trị gia tăng của hộ kinh doanh tạo ra tương ứng với mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân của người làm công ăn lương.

Ông tính toán ngưỡng doanh thu 1 tỷ đồng là “hợp lý, phần nào tạo sự công bằng, bình đẳng giữa người nộp thuế”. Mức này cũng phù hợp với quy định hộ kinh doanh có doanh thu từ 1 tỷ đồng trở lên phải sử dụng máy tính tiền kết nối với cơ quan thuế, giúp chính sách có tính đồng bộ và tạo thuận tiện cho người nộp thuế.

Ông Được dẫn số liệu của Thuế TP. HCM đến tháng 7/2025 cho thấy có gần 249.000 hộ kinh doanh khoán, trong đó 92,6% ghi nhận doanh thu dưới 1 tỷ đồng. Từ số liệu này, phương án doanh thu miễn thuế 1 tỷ đồng không ảnh hưởng lớn đến thu ngân sách nhà nước. Phương án này, theo ông, còn tiết kiệm chi phí tuân thủ cho người nộp thuế và thúc đẩy hoạt động của hộ kinh doanh, đặc biệt hộ có quy mô nhỏ và ở vùng sâu, vùng xa. 

TS Nguyễn Quốc Việt (Trường ĐH Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà Nội) cho rằng, vấn đề lớn nhất đối với cải cách chế độ thuế khoán sang thuế kê khai không phải nằm ở mức thuế suất hiện hành thấp hay cao mà là ở định mức miễn thuế. 

Vì thế, ông Việt nhấn mạnh việc nâng ngưỡng doanh thu chịu thuế nhằm tạo sự an tâm cho cá nhân, hộ kinh doanh là cần thiết. Nếu ngưỡng doanh thu chịu thuế quá thấp, chắc chắn hộ kinh doanh sẽ tìm cách trốn doanh thu hoặc nếu không còn cách nào khác thì phải tăng giá do cộng thêm chi phí giá trị gia tăng đầu vào, chi phí tuân thủ…

Chuyên gia này cũng đề xuất ngưỡng thu thuế tối thiểu với doanh thu trên 500 triệu đồng/năm và hướng tới 1 tỷ đồng/năm, tương đương mức miễn giảm thuế giá trị gia tăng trên GDP đầu người của các nước trong khu vực như Singapore, Trung Quốc… 

“Câu chuyện cải cách của ngành thuế rất cần thiết, song nếu chúng ta cố để cải cách nửa vời thì không thể giải quyết bài toán minh bạch – bình đẳng thuế đi kèm nuôi dưỡng và phát triển hộ kinh doanh nhỏ. Nếu đã bỏ hẳn thuế khoán thì buộc lòng phải bỏ hẳn thuế trực thu đánh trên doanh thu, gộp chung vào thuế thu nhập cá nhân và cho phép khấu trừ đầu vào bên cạnh giảm trừ gia cảnh cho người lao động làm công ăn lương…”, TS Nguyễn Quốc Việt khuyến nghị.

Điều chỉnh mức thuế phù hợp với từng nhóm đối tượng

Đại biểu Quốc hội Trần Văn Lâm đề nghị, Chính phủ cần điều chỉnh mức thuế suất theo hướng phù hợp hơn với từng nhóm đối tượng, bảo đảm hộ kinh doanh không chịu thiệt so với doanh nghiệp. 

Đồng thời, cơ quan soạn thảo cần làm rõ căn cứ pháp lý, cơ sở khoa học của phương pháp đánh thuế và có cơ chế bảo vệ nhóm yếu thế, nhất là những hộ không có điều kiện mở rộng quy mô hay thực hiện hạch toán kế toán khi bỏ hình thức thuế khoán.

Phải điều chỉnh mức thuế phù hợp với từng nhóm đối tượng.

Phân tích cụ thể hơn, ông Nguyễn Quang Huy – CEO Khoa Tài chính – Ngân hàng (Đại học Nguyễn Trãi) cho rằng, hộ kinh doanh khác với một doanh nghiệp. Bởi, họ không chỉ là một chủ thể kinh tế mà còn là một cấu trúc xã hội mang tính gia đình. Nhiều hộ có 2-3, thậm chí 4 thành viên cùng tham gia sản xuất, buôn bán, phục vụ khách hàng. Tất cả lao động, thời gian, chi phí sinh hoạt, khấu hao tài sản gia đình… đều đan xen, không tách bạch như trong mô hình doanh nghiệp. Vì vậy, việc chỉ dùng tổng doanh thu làm căn cứ đánh thuế sẽ dễ dẫn đến sai lệch trong việc đánh giá khả năng nộp thuế, đặc biệt với những ngành nghề có lợi nhuận thấp, chi phí vận hành cao hoặc hộ có nhiều lao động gia đình phụ thuộc vào nguồn thu chung.

“Nhiều trường hợp, doanh thu của hộ có thể lớn nhưng lợi nhuận ròng lại rất nhỏ, chỉ đủ để nuôi sống các thành viên gia đình. Nếu không tính đúng và đủ, việc nộp thuế sẽ thành gánh nặng, làm giảm động lực kinh doanh, khả năng tái đầu tư và ảnh hưởng đến an sinh của các hộ lao động tự do”, ông Huy lưu ý.

Vì thế, nhà quản lý cần xây dựng công thức xác định ngưỡng chịu thuế dựa trên bản chất kinh tế, không chỉ dựa trên doanh thu. Theo đó, cần xác định doanh thu thực tế của hộ, khấu trừ chi phí hợp lý để tính lợi nhuận ròng. Đồng thời, phần lợi nhuận ròng cần được chia cho số thành viên lao động trực tiếp trong gia đình, sau đó so sánh thu nhập bình quân này với ngưỡng chịu thuế thu nhập cá nhân.

“Nếu thu nhập bình quân thấp hơn mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân, hộ đó chưa nên chịu nghĩa vụ thuế. Cách tiếp cận này công bằng giữa hộ kinh doanh và người làm công ăn lương, các ngành nghề có tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Phương pháp này cũng thể hiện tinh thần “đánh thuế theo khả năng nộp thuế, không đánh thuế vào sinh kế”, ông Huy nói.

Bên cạnh đó, về nguyên tắc, chính sách thuế không thể “cào bằng”, bởi kinh tế hộ có sự phân hóa rõ rệt về biên lợi nhuận. Chẳng hạn, ngành thương mại – bán lẻ – đại lý có lợi nhuận thấp, thường 3 – 8% – tức doanh thu cao chưa chắc đủ sống. Dịch vụ ăn uống – lưu trú lợi nhuận tầm 8 – 15% nhưng chi phí đầu vào, mặt bằng, thất thoát cao. Dịch vụ cá thể (sửa xe, cắt tóc, sửa chữa điện nước) có thu nhập phụ thuộc công lao động, trong khi sản xuất thủ công nhỏ có nguyên liệu biến động, công lao động cao. Hay các dịch vụ chuyên môn nhỏ (kế toán, thiết kế, IT freelance) có lợi nhuận cao hơn, nhưng không ổn định theo mùa vụ.

“Một ngưỡng doanh thu phù hợp cho ngành này có thể bất hợp lý với ngành khác. Chính sách mới cần thiết kế theo hướng ngưỡng doanh thu chịu thuế phân theo nhóm ngành, bảo đảm sát thực tế và giảm xung đột”, ông Huy nói

Ngoài ra, nhiều đề xuất cho rằng, nhà quản lý có thể tính tới yếu tố vùng miền bởi chi phí sinh hoạt khác nhau sẽ có ngưỡng doanh thu khác nhau. Hà Nội, TP. HCM có mặt bằng, thực phẩm, vận chuyển, nhân công đều đắt đỏ so với hộ kinh doanh ở các tỉnh miền núi. Cùng một doanh thu nhưng lợi nhuận thực tế ở thành phố lớn thường thấp hơn vì chi phí đầu vào cao gấp 2-3 lần”, ông dẫn chứng.

Kỳ Thư

Nguồn: vietnamfinance.vn

spot_imgspot_img

BÀI MỚI