Bộ Tài chính đang dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt. Theo đó, Bộ đề xuất quy định về đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.

Đề xuất quy định mới về đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt- Ảnh 1.
Bộ Tài chính đề xuất quy định về đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt

Đối tượng chịu thuế

Tại Điều 3 của dự thảo, Bộ Tài chính đề xuất đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt như sau:

Đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thực hiện theo quy định tại Điều 2 Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt. Một số trường hợp được quy định như sau:

1. Xe có gắn động cơ dưới 24 chỗ, bao gồm: xe ô tô chở người; xe chở người bốn bánh có gắn động cơ; xe ô tô pick-up chở người; xe ô tô pick-up chở hàng cabin kép; xe ô tô tải VAN có từ hai hàng ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang chở người và khoang chở hàng, không bao gồm các loại xe quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3 Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và quy định tại khoản 6 Điều 4 Nghị định này.

2. Máy bay, trực thăng, tàu lượn và du thuyền, không bao gồm các loại quy định tại điểm c khoản 1 Điều 3 Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và quy định tại khoản 5 Điều 4 Nghị định này.

3. Điều hoà nhiệt độ công suất trên 24.000 BTU đến 90.000 BTU trừ loại theo thiết kế của nhà sản xuất chỉ để lắp trên phương tiện vận tải bao gồm ô tô, toa xe lửa, máy bay, trực thăng, tàu, thuyền. Trường hợp tổ chức, cá nhân sản xuất bán hoặc tổ chức, cá nhân nhập khẩu nhập tách riêng từng bộ phận là cục nóng hoặc cục lạnh thì hàng hóa bán ra hoặc nhập khẩu (cục nóng, cục lạnh) vẫn thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt như đối với sản phẩm hoàn chỉnh (máy điều hòa nhiệt độ hoàn chỉnh);

Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh nhập khẩu, ủy thác nhập khẩu hệ thống điều hòa trung tâm trên 90.000 BTU hoặc tổ chức, cá nhân kinh doanh nhập khẩu ký hợp đồng với nhà thầu lắp đặt thiết bị trong nước về việc cung cấp hệ thống điều hòa trung tâm trên 90.000 BTU, việc giao hàng tùy thuộc vào tiến độ thi công công trình (hệ thống điều hòa này được nhập khẩu thành nhiều lần, nhiều chuyến), Bộ Tài chính hướng dẫn về hồ sơ để xác định đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với trường hợp này.

4. Nước giải khát theo Tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) có hàm lượng đường trên 5g/100ml quy định tại điểm l khoản 1 Điều 2 Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt là nước giải khát theo Tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam (TCVN 12828:2019) có hàm lượng đường trên 5g/100ml, bao gồm: đồ uống hương liệu (kể cả nước uống tăng lực, nước uống thể thao, nước uống điện giải và các đồ uống đặc biệt khác), nước giải khát có chứa cà phê, nước giải khát có chứa chè, đồ uống thảo mộc, nước giải khát có chứa nước trái cây và các loại đồ uống từ ngũ cốc.

Nước giải khát theo TCVN 12828:2019 không bao gồm các sản phẩm: sữa và sản phẩm từ sữa; thực phẩm dạng lỏng dùng với mục đích dinh dưỡng; nước khoáng thiên nhiên và nước uống đóng chai; nước rau, quả và nectar (mật) rau, quả và sản phẩm từ cacao.

Hàm lượng đường được tính là lượng đường tổng số theo hướng dẫn của Bộ Y tế về nhãn hàng hóa, bao gồm cả tiêu chí về hàm lượng đường được ghi trên nhãn hàng hóa.

5. Kinh doanh vũ trường, kinh doanh ka-ra-ô-kê (karaoke) theo quy định tại Nghị định số 54/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2019 của Chính phủ quy định về kinh doanh dịch vụ ka-ra-ô-ke, dịch vụ vũ trường (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 148/2024/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2024).

6. Kinh doanh mát-xa (massage) được xác định theo quy định pháp luật chuyên ngành thuộc loại hình kinh doanh có điều kiện.

7. Kinh doanh ca-si-nô (casino) theo quy định tại Nghị định số 03/2017/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ về kinh doanh casino (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 145/2024/NĐ-CP ngày 04 tháng 11 năm 2024); trò chơi điện tử có thưởng bao gồm trò chơi bằng máy giắc-pót (jackpot), máy sờ-lot (slot) và các loại máy tương tự theo quy định tại Nghị định số 121/2021/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài.

8. Kinh doanh đặt cược bao gồm đặt cược thể thao, giải trí và các hình thức đặt cược khác theo quy định tại Nghị định số 06/2017/NĐ-CP ngày 24 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ về kinh doanh đặt cược đua ngựa, đua chó và bóng đá quốc tế (đã được sửa đổi, bổ sung tại Điều 9 Nghị định số 151/2018/NĐ-CP ngày 7 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính).

9. Kinh doanh gôn (golf) theo quy định tại Nghị định số 52/2020/NĐ-CP ngày 27 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ về đầu tư xây dựng và kinh doanh sân gôn (đã được sửa đổi, bổ sung tại Điều 107 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư) bao gồm kinh doanh sân tập gôn, bán thẻ hội viên, vé chơi gôn.

10. Kinh doanh xổ số theo quy định tại Nghị định số 30/2007NĐ-CP ngày 01 tháng 3 năm 2007 của Chính phủ về kinh doanh xổ số (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 78/2012/NĐ-CP ngày 5 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ và Điều 4 Nghị định số 151/2018/NĐ-CP ngày 7 tháng 11 năm 2018).

11. Trường hợp cần thiết phải sửa đổi, bổ sung đối tượng chịu thuế để phù hợp với bối cảnh kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan có liên quan báo cáo Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

Đối tượng không chịu thuế

Điều 4 dự thảo nêu rõ:

Đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thực hiện theo quy định tại Điều 3 Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt. Một số trường hợp được quy định như sau:

1. Hàng hóa do tổ chức, cá nhân sản xuất, gia công, thuê gia công trực tiếp xuất khẩu ra nước ngoài hoặc bán, ủy thác cho tổ chức, cá nhân kinh doanh khác để xuất khẩu ra nước ngoài. Hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài quy định tại khoản này không bao gồm: hàng hóa bán từ nội địa vào khu phi thuế quan; hàng hóa sản xuất, gia công, thuê gia công, mua bán giữa các khu phi thuế quan với nhau.

2. Hàng tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu và tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu không phải nộp thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu trong thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Trường hợp quá thời hạn tái xuất khẩu, tái nhập khẩu hoặc bán ra hoặc thay đổi mục đích sử dụng trong thời hạn tạm nhập khẩu, tạm xuất khẩu thì tổ chức, cá nhân kinh doanh phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt.

a) Hàng hóa tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu, nếu thực tái xuất khẩu trong thời hạn không phải nộp thuế nhập khẩu theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì không phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt tương ứng với số hàng thực tái xuất khẩu.

b) Hàng hóa tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu, nếu thực tái nhập khẩu trong thời hạn không phải nộp thuế xuất khẩu theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì không phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt tương ứng với số hàng thực tái nhập khẩu.

3. Đồ dùng của tổ chức, cá nhân nước ngoài theo tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao theo quy định tại Phụ lục I, II, III Nghị định số 134/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 18/2021/NĐ-CP ngày 11 tháng 03 năm 2021); hàng hóa trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế nhập khẩu theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 134/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; hàng nhập khẩu để bán tại cửa hàng miễn thuế theo quy định tại Nghị định số 68/2016/NĐ-CP ngày 01 năm 7 năm 2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh hàng miễn thuế, kho bãi, địa điểm làm thủ tục hải quan, tập kết, kiểm tra, giám sát hải quan (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 67/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 6 năm 2020 của Chính phủ) và Nghị định số 100/2020/NĐ-CP ngày 28 tháng 8 năm 2020 của Chính phủ về kinh doanh hàng miễn thuế.

4. Hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài đã được nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu nộp thuế tiêu thụ đặc biệt bị phía nước ngoài trả lại khi nhập khẩu là hàng hóa không thuộc quy định tại khoản 1 Điều này và có chứng từ đã nộp thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định.

Hàng hóa quy định tại khoản này phải đáp ứng điều kiện chưa qua sử dụng, gia công, chế biến.

5. Máy bay, trực thăng, tàu lượn, du thuyền sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hoá, hành khách, khách du lịch và máy bay, trực thăng, tàu lượn sử dụng cho mục đích an ninh, quốc phòng, cứu thương, cứu hộ, cứu nạn, chữa cháy, huấn luyện đào tạo phi công, quay phim, chụp ảnh, đo đạc bản đồ, sản xuất nông nghiệp.

Trường hợp máy bay, trực thăng, tàu lượn, du thuyền nêu tại khoản này có thay đổi mục đích sử dụng so với mục đích đã được xác định thuộc đối tượng không chịu thuế thì thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Trong đó:

a) Tổ chức, cá nhân kinh doanh có máy bay, trực thăng, tàu lượn, du thuyền nhập khẩu thay đổi mục đích sử dụng phải kê khai nộp thuế tiêu thụ đặc biệt với cơ quan hải quan theo hướng dẫn của Bộ Tài chính về thủ tục hải quan; kiểm tra giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

b) Tổ chức, cá nhân kinh doanh có máy bay, trực thăng, tàu lượn, du thuyền sản xuất trong nước thay đổi mục đích sử dụng thì thực hiện nghĩa vụ nộp thuế tiêu thụ đặc biệt thay cho tổ chức, cá nhân sản xuất và kê khai, nộp thuế tiêu thụ đặc biệt theo giá trị còn lại sau khi trừ giá trị đã khấu hao theo quy định với cơ quan thuế quản lý trực tiếp.

6. Đối với xe ô tô, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3 của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt là các loại xe theo thiết kế của nhà sản xuất được sử dụng làm xe ô tô cứu thương, xe ô tô chở phạm nhân, xe ô tô tang lễ; xe ô tô thiết kế vừa có chỗ ngồi, vừa có chỗ đứng chở được từ 24 người trở lên; xe ô tô chở người, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ không đăng ký lưu hành và chỉ chạy trong phạm vi khu vui chơi, giải trí, thể thao, di tích lịch sử, bệnh viện, trường học; xe ô tô chuyên dùng phục vụ an ninh, quốc phòng do Bộ Công an hoặc Bộ Quốc phòng xác định. Bộ Xây dựng chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan xác định, hướng dẫn cụ thể về xe chuyên dùng khác thuộc đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt trong trường hợp có phát sinh.

Đối với xe ô tô chở người, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ không đăng ký lưu hành và chỉ chạy trong phạm vi khu vui chơi, giải trí, thể thao, di tích lịch sử, bệnh viện, trường học thuộc đối tượng không chịu thuế quy định tại khoản này phải có tài liệu chứng minh chỉ chạy trong phạm vi khu vui chơi, giải trí, thể thao, di tích lịch sử, bệnh viện, trường học và đáp ứng hồ sơ theo quy định của Bộ Tài chính. Xe không đăng ký lưu hành là xe không đăng ký tham gia giao thông theo quy định của pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ.

Trường hợp xe ô tô chở người, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ nêu tại khoản này thay đổi mục đích sử dụng so với mục đích đã được xác định thuộc đối tượng không chịu thuế thì thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Trong đó:

a) Tổ chức, cá nhân kinh doanh có xe ô tô chở người, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ nhập khẩu thay đổi mục đích sử dụng phải kê khai nộp thuế tiêu thụ đặc biệt với cơ quan hải quan theo hướng dẫn của Bộ Tài chính về thủ tục hải quan; kiểm tra giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

b) Tổ chức, cá nhân kinh doanh có xe ô tô chở người, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ sản xuất trong nước thay đổi mục đích sử dụng thì thực hiện nghĩa vụ nộp thuế tiêu thụ đặc biệt thay cho tổ chức, cá nhân sản xuất và kê khai, nộp thuế tiêu thụ đặc biệt theo giá trị còn lại sau khi trừ giá trị đã khấu hao theo quy định với cơ quan thuế quản lý trực tiếp.

7. Trường hợp cần thiết phải sửa đổi, bổ sung đối tượng không chịu thuế để phù hợp với bối cảnh kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan có liên quan báo cáo Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

8. Bộ Tài chính hướng dẫn về hồ sơ xác định đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt quy định tại khoản 1 và 2 Điều này.

Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.

PV

Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ

Nhiều doanh nghiệp nông sản cho rằng cơ chế “nộp rồi hoàn” thuế VAT 5% đối với hàng xuất khẩu không chỉ tạo ra khối lượng thủ tục khổng lồ mà còn khiến dòng tiền bị “giam lỏng”, gia tăng rủi ro tài chính.

Các chuyên gia đề xuất cần chuyển sang áp dụng thuế suất 0% hoặc thuế khoán minh bạch, vừa giảm gánh nặng cho doanh nghiệp, vừa ngăn gian lận hoàn thuế.

Đóng rồi lại hoàn: Phức tạp mà không tạo ra giá trị

Diễn đàn Kinh tế tư nhân 2025 (VPSF 2025), ông Phan Minh Thông, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Phúc Sinh cho rằng việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu vào các vùng nguyên liệu sẽ giúp giải bài toán về giải cứu hàng hóa, dồn mùa vụ, giúp nâng cao giá trị, vị thế doanh nghiệp Việt Nam giải quyết công ăn việc làm.

Việt Nam là nước xuất khẩu số 2, số 3 nhiều nguyên liệu nông sản, buôn bán khắp nơi trên thế giới, nên ông Sinh cho rằng cần thành lập các sở giao dịch hàng hóa để tạo ra việc làm, thu hút nguồn vốn, chuẩn hóa doanh nghiệp để đảm bảo tính minh bạch, dữ liệu.

Mô hình này cũng tạo ra sản phẩm cho các trung tâm tài chính, hoạt động kinh doanh của công ty vừa và nhỏ.

Sản xuất, chế biến sâu hồ tiêu tại Công ty cổ phần Phúc Sinh.

Về tháo gỡ vấn đề thuế VAT, ông Thông cho hay từ 1/7, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản phải xuất hóa đơn với thuế suất VAT 5% và thực hiện hoàn thuế sau khi xuất khẩu.

Nhiều mặt hàng như hạt tiêu xuất khẩu trên 90%, cà phê trên 85%, hạt điều trên 80%. Việc phải đóng thuế VAT sau đó lại hoàn thuế đã tạo ra khối lượng công việc khổng lồ và mất thời gian.

“Việc đóng thuế như vậy không tạo ra giá trị. Ví dụ như với Phúc Sinh xuất khẩu mỗi tháng là 1.000 tỷ, nộp thuế VAT 50 tỷ sau đó lại hoàn thuế VAT 50 tỷ, làm mất nhiều thời gian. 

Một hồ sơ bị tắc nghẽn là cả bộ hồ sơ trả lại. Mỹ đã đánh thuế 20%, chúng ta lại đánh thuế 5%, tức là hai lần khó khăn. Vì vậy chúng tôi kiến nghị cần miễn thuế VAT với doanh nghiệp xuất khẩu nguyên liệu trên 80%”, ông Thông bày tỏ.

Ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn Intimex, một “ông lớn” trong xuất khẩu nông sản với doanh số hơn 1 tỷ USD/năm cho rằng, bản chất hàng xuất khẩu không chịu thuế VAT, nên việc phải đóng 5% rồi làm thủ tục hoàn là bất hợp lý và phiền hà.

“Nỗi lo lớn nhất của doanh nghiệp xuất khẩu là vốn bị giam lỏng, dòng tiền tắc nghẽn vì khoản thuế GTGT tạm ứng khổng lồ”, ông nói.

Ông Nam đưa ra ví dụ cụ thể: Intimex và các công ty thành viên mỗi tháng xuất khẩu tới 20.000 tấn cà phê với đơn giá 100.000 đồng/kg. Chỉ riêng khoản thuế GTGT tạm đóng đã lên tới 100 tỷ đồng/tháng.

Khoản tiền này bị “giam” trong suốt thời gian chờ hoàn thuế, khiến doanh nghiệp có nguy cơ cạn kiệt tiền mặt vào cuối năm. Đáng lo hơn, ngân hàng không cho vay đối với khoản tiền thuế đang chờ hoàn. Với các hợp đồng Chính phủ (G2G) kéo dài tới 3 năm, vấn đề dòng tiền càng trở nên trầm trọng.

“Trong bối cảnh thị trường thay đổi nhanh, việc vốn bị khóa như vậy chẳng khác nào tự trói tay mình”, ông Nam nhấn mạnh. Theo ông, áp dụng thuế khoán hoặc 0% ngay từ đầu sẽ giúp doanh nghiệp chủ động hơn, giảm áp lực tài chính, duy trì nhịp sản xuất – giao hàng và giảm nguy cơ đổ vỡ hợp đồng.

Áp dụng thuế suất 0% đầu vào hoặc thuế khoán minh bạch

Dưới góc độ pháp lý, Luật sư Lê Thị Nhung – Giám đốc Công ty Luật L&A Legal Experts phân tích, Luật Thuế GTGT hiện hành cho phép hoàn thuế đầu vào đối với hàng xuất khẩu để tránh đánh thuế trùng. Tuy nhiên, thực tế triển khai phức tạp, tốn thời gian và tiềm ẩn nhiều rủi ro.

“Chỉ cần một sai sót nhỏ trong hồ sơ, doanh nghiệp có thể bị kéo dài thời gian hoàn thuế hoặc bị truy thu. Với doanh nghiệp vừa và nhỏ, đây là áp lực không nhỏ”, bà nhận định.

Doanh nghiệp xuất khẩu kêu khó: ‘Đóng rồi hoàn thuế VAT chỉ làm tắc dòng tiền’.

Theo bà Nhung, áp dụng thuế suất 0% đầu vào hoặc thuế khoán minh bạch sẽ giảm đáng kể thủ tục, hạn chế cơ hội gian lận và vẫn đảm bảo nguồn thu ngân sách.

Nhưng để thực hiện hiệu quả, cần có hướng dẫn chi tiết và cơ chế giám sát chặt chẽ để phân biệt hàng xuất khẩu thực với hàng tiêu thụ nội địa giả danh xuất khẩu.

“Nếu thiết kế tốt, chính sách này không chỉ gỡ khó cho doanh nghiệp mà còn giúp cơ quan thuế tập trung vào công tác giám sát thay vì xử lý một khối lượng khổng lồ hồ sơ hoàn thuế”, bà nói.

Theo Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam (VPSA), năm 2024, sản lượng hồ tiêu cả nước đạt khoảng 200.000 tấn, trong đó hơn 95% được xuất khẩu. Lượng tiêu thụ nội địa chỉ chiếm khoảng 5% sản lượng, tương đương khoảng 5.000 tấn, chủ yếu là sản phẩm chế biến sâu và tiêu dùng trực tiếp. Với thuế suất VAT 5%, số thu từ thị trường trong nước chỉ khoảng 55 tỷ đồng.

Ngược lại, số tiền hoàn thuế VAT cho hồ tiêu xuất khẩu lên tới 2.135 tỷ đồng, tức cứ mỗi đồng thuế thu vào, ngân sách phải hoàn gần 39 đồng. Điều đáng nói là cơ chế này tạo ra áp lực kép cho cả doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý.

Doanh nghiệp buộc phải tạm ứng khoản VAT đầu vào lớn, chờ thủ tục hoàn thuế kéo dài, khiến vốn lưu động bị “đóng băng” đúng lúc cần xoay vòng để chốt đơn hàng.

Chênh lệch quá lớn giữa thu và hoàn cũng trở thành kẽ hở cho gian lận, đặc biệt với những hồ sơ xuất khẩu giả. Trong khi đó, cả doanh nghiệp và cơ quan thuế đều tiêu tốn thời gian, nhân lực để xử lý một thủ tục hành chính vừa phức tạp vừa kém hiệu quả.

Từ thực tế này, VPSA kiến nghị bỏ hẳn cơ chế hoàn thuế VAT đối với hồ tiêu xuất khẩu. Thay vào đó, áp dụng thuế suất 0% cho đầu vào phục vụ xuất khẩu hoặc thuế khoán khoảng 0,5% trên kim ngạch xuất khẩu. Với thị trường nội địa, vẫn duy trì VAT 5% để đảm bảo nguồn thu ngân sách.

Hiệp hội cho rằng, nếu làm vậy, doanh nghiệp sẽ giảm gánh nặng vốn, rút ngắn thời gian thủ tục và ngân sách cũng hạn chế được nguy cơ gian lận hoàn thuế.

Kỳ Thư

Nguồn: vietnamfinance.vn

Bộ Tài chính khẳng định mọi cá nhân có thu nhập đến ngưỡng chịu thuế đều phải nộp thuế thu nhập cá nhân, không phân biệt lương từ ngân sách hay khu vực tư nhân.

Ảnh minh họa.

Bộ Tài chính cho biết, Luật Thuế thu nhập cá nhân áp dụng thống nhất với mọi cá nhân có thu nhập đến ngưỡng chịu thuế, không phân biệt nguồn chi trả từ ngân sách hay khu vực tư nhân. Việc loại trừ thuế đối với tiền lương, tiền công từ ngân sách sẽ không phù hợp, dễ gây phản ứng trái chiều trong dư luận.

Theo Bộ Tài chính, nguyên tắc của pháp luật thuế là cá nhân có mức thu nhập tính thuế như nhau thì phải thực hiện nghĩa vụ thuế bình đẳng như nhau, không phân biệt lao động thuộc khu vực công hay khu vực tư. Mức giảm trừ cho các cá nhân cũng được quy định như nhau.

Bộ Tài chính cho biết, Luật Thuế thu nhập cá nhân hiện hành đã có quy định liên quan đến các khoản thu nhập “tiền làm thêm giờ”, “tiền ca đêm”, “trợ cấp thôi việc”, “trợ cấp khó khăn”. Dự thảo luật sửa đổi tiếp tục kế thừa quy định này.

Tại góp ý dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) gửi Bộ Tài chính, Bộ Công an có đề xuất nghiên cứu bổ sung quy định miễn thuế đối với thu nhập là tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền công được chi trả từ ngân sách nhà nước.

Bởi, theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2025, thuế thu nhập cá nhân cũng là khoản thu ngân sách. Do đó, việc ngân sách chi lương, rồi lại thu thuế thu nhập cá nhân từ chính khoản này để nộp lại vào ngân sách sẽ làm phát sinh thêm thủ tục, bộ phận, nhân sự thực hiện không cần thiết.

Bên cạnh đó, Bộ Công an kiến nghị nghiên cứu miễn thuế thu nhập cá nhân đối với các khoản “tiền làm thêm giờ”, “tiền ca đêm”, “trợ cấp thôi việc”, “trợ cấp khó khăn”. Theo Bộ Công an, đây là những khoản mang tính động viên, bù đắp rủi ro cho người lao động. Nếu bị tính thuế, chính sách khuyến khích làm thêm giờ, thưởng vượt năng suất… sẽ giảm tác dụng, đồng thời gây thiệt thòi cho người lao động, nhất là nhóm lao động phổ thông, lao động làm ca đêm.

Ngoài ra, đối với thu nhập từ thừa kế, quà tặng, cơ quan chủ trì cần làm rõ tiêu chí xác định tài sản không đăng ký, nhằm bảo đảm tính minh bạch, tránh áp dụng tùy tiện. Bộ Công an cũng đề nghị nghiên cứu bổ sung các loại tài sản kỹ thuật số (tiền điện tử, tài sản ảo…) vào diện chịu thuế, để bắt kịp xu thế tài chính hiện đại.

Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tuyên Quang đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát kỹ lưỡng các quy định liên quan đến thu nhập được miễn, giảm thuế. Việc bổ sung diện miễn, giảm thuế chỉ nên áp dụng trong những trường hợp thật sự cần thiết, phù hợp với bối cảnh kinh tế – xã hội; đồng thời, cần quy định chặt chẽ để tránh tình trạng lợi dụng chính sách nhằm kê khai trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước.

Hội Tư vấn thuế và Đại lý thuế TP. Hồ Chí Minh đánh giá cao quy định miễn thuế thu nhập cá nhân đối với tiền lương, tiền công của nhà khoa học thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo từ nguồn vốn ngân sách. Tuy nhiên, Hội đề nghị mở rộng đối tượng miễn thuế sang các lĩnh vực y tế, giáo dục, chuyển đổi số… nhằm tạo động lực phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số quốc gia.

Mặt khác, cần nghiên cứu bổ sung còn là nhà khoa học thực hiện nhiệm vụ từ nguồn vốn xã hội hóa, nhằm đảm bảo công bằng, vừa khuyến khích nghiên cứu và đổi mới sáng tạo. Một số ý kiến cũng lưu ý, khi chi trả kinh phí cho nhà khoa học từ nguồn xã hội hóa hoặc doanh nghiệp, cần tham chiếu với quy định về trích lập quỹ khoa học và công nghệ để tránh ưu đãi trùng lặp.

Theo Bộ Tài chính, Luật đã bổ sung quy định miễn thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công từ thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Bộ Tài chính cho biết đã nhận được 382 văn bản tham gia ý kiến về dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi); trong đó có 15 đơn bị nhất trí hoàn toàn, một số ý kiến khác cơ bản nhất trí, tham gia ý kiến về kết cấu, câu chữ cho phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; các ý kiến còn lại đã được Bộ Tài chính giải trinh, tiếp thu đầy đủ.

PV

Nguồn: VTV.vn

Theo đại diện các doanh nghiệp, quy định hoá đơn điện tử được lập đúng thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế gây khó khăn cho nhiều ngành nghề, lĩnh vực, do đó kiến nghị cơ quan soạn thảo cần linh hoạt hơn để bao quát được hết thực tiễn.

Chia sẻ tại Hội thảo lấy ý kiến doanh nghiệp Dự thảo Luật quản lý thuế (thay thế) được Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức ngày 16/9, ông Phan Vũ Hoàng, Phó Tổng giám đốc Deloit​te Việt Nam đã nêu kiến nghị của các doanh nghiệp về quy định thời điểm xuất hoá đơn điện tử, chứng từ điện tử.

Cụ thể, ông Hoàng dẫn quy định tại Điểm c, Khoản 4, Điều 26 Dự thảo Luật Quản lý thuế (thay thế), hoá đơn điện tử phải được lập đúng thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế, trừ trường hợp đặc thù do Chính phủ quy định.

“Như vậy, sẽ được hiểu là hoá đơn phải được lập ngay tại thời điểm phát sinh giao dịch mua bán, nếu chậm sẽ bị phạt”, ông Hoàng lý giải thêm.

Ông Phan Vũ Hoàng, Phó Tổng giám đốc Deloit​te Việt Nam.

Theo đại diện của Deloit​te, việc triển khai đồng loạt hoá đơn điện tử đã giúp nâng cao tính minh bạch trong quản lý thuế, hạn chế gian l​ận thuế nhưng​ quy định nêu trên đối với một số trường hợp nên xem xét cụ thể hơn để việc quản lý thuế được hiệu quả.

Ông Hoàng ví dụ, một doanh nghiệp thương mại điện tử phát sinh rất nhiều hoạt động mua bán nhỏ lẻ, mỗi ngày có hàng trăm ngàn, mỗi tháng phát sinh đến vài triệu giao dịch. Mỗi một lần như vậy phải ngay lập tức xuất hoá đơn, gây khó khăn, tạo gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp cũng như toàn xã hội.

Tương tự, bà Đoàn Lê Duy Uyên, Trưởng bộ phận thuế của Công ty TNHH Grab Việt Nam phân tích, như trường hợp của Grab, chuyên cung cấp ứng dụng thương mại điện tử gồm vận tải hành khách theo hợp đồng đối với ô tô và xe 2 bánh, cung cấp dịch vụ cho cả cá nhân và doanh nghiệp. Đồng thời, Grab hợp tác với cả các đối tác thực hiện hoạt động kinh doanh vận tải như HTX vận tải, cá nhân kinh doanh.

Bà Đoàn Lê Duy Uyên, Trưởng bộ phận thuế của Công ty TNHH Grab Việt Nam.

Theo quy định hiện nay, Grab sẽ kê khai, xuất hoá đơn, nộp thay cho các hoạt động giao dịch hoàn thành trên hệ thống ứng dụng Grab. Việc này sẽ phát sinh khối lượng giao dịch rất lớn trong một tháng, cùng với đó là kiểm tra, đối soát số liệu các hoạt động phát sinh trong tháng.

Với dịch vụ kinh doanh vận tải bằng xe taxi, đã có quy định xuất hoá đơn theo kỳ, nhưng nhiều mảng hiện n​ay của Grab không áp dụng được bởi chưa có trong văn bản pháp luật.

“Vì vậy, việc xuất hoá đơn ngay tại thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế đang gây nhiều khó khăn cho Grab trong vận hành”, đại diện của Grab Việt Nam nhấn mạnh.

Do đó, Grab đề xuất thời điểm phát hành hoá đơn, đặc biệt với khách hàng doanh nghiệp, được xuất hoá đơn theo kỳ đối soát hoặc cuối mỗi tháng để phù hợp với mô hình kinh doanh, tạo thuận lợi cho vận hành và đảm bảo việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp.

Nói thêm về vấn đề này, ông Phan Vũ Hoàng cho rằng, thực tế trong chính sách hiện hành có nêu các trường hợp đặc thù, được xuất hoá đơn theo kỳ nhưng dạng liệt kê và bị giới hạn. Điều này, dẫn đến nhiều trường hợp không trong quy định, vẫn phải xuất hoá đơn từng lần, tạo gánh nặng cho doanh nghiệp, người mua, người bán, thậm chí là cả cơ quan quản lý thuế khi mỗi ngày nhận hàng trăm ngàn hoá đơn gửi về.

Ví dụ, hoạt động thương mại điện tử, kinh doanh vận tải bằng xe taxi với khách hàng doanh nghiệp được áp dụng theo kỳ, nhưng các dịch vụ như ứng dụng gọi xe, giao hàng, vận tải hành khách, đặt phòng khách sạn…không nằm trong quy định của pháp luật hiện hành, nên vẫn phải xuất hoá đơn theo từng lần sau mỗi giao dịch.

Ông Hoàng thông tin, thực tiễn quốc tế cho thấy nhiều nước áp dụng hoá đơn theo kỳ, theo tháng. EU áp dụng hoá đơn tổng hợp, hoặc Vương quốc Anh cho phép lập hoá đơn định kỳ cho các dịch vụ cung ứng liên tục.

Gần Việt Nam nhất, Malaysia cũng cho phép hoá đơn hợp nhất theo tháng trong trường hợp doanh nghiệp không có nhu cầu lập hoá đơn riêng lẻ, hoặc Singapore lập hoá đơn gộp theo kỳ.

“Đây cũng là thực tiễn phổ biến quốc tế, và cũng đúng với chủ trương xây dựng pháp luật của ngành thuế trong việc hợp tác quốc tế”, ông Hoàng nêu quan điểm.

Chưa kể, khi áp dụng quản lý thuế, với mô hình B2B về mặt rủi ro là khá thấp.

Luật Quản lý thuế (thay thế) dự kiến trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp tháng 10/2025.

Từ những dẫn chứng trên, ông Phan Vũ Hoàng kiến nghị Cục Thuế (Bộ Tài chính) bổ sung thêm Điều 26, Luật Quản lý thuế (thay thế) theo hướng nguyên tắc như sau: Hoá đơn điện tử được lập vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế theo quy định hoặc theo kỳ phát sinh nghĩa vụ thuế đối với các trường hợp cung cấp hàng hoá, dịch vụ số lượng lớn, phát sinh thường xuyên, cần tra soát dữ liệu, các trường hợp đặc thù và Chính phủ quy định cụ thể thực hiện điều này.

“Cần quy định nguyên tắc xuất hoá đơn theo kỳ với các trường hợp số lượng lớn, sau đó Chính phủ quy định việc thực hiện. Chúng tôi rất mong khi có các Nghị định, Thông tư hướng dẫn cần quy định mở hơn để có thể áp dụng linh hoạt với thực tiễn”, ông Hoàng đề xuất.

Bà Nguyễn Thị Thanh Hằng, Trưởng ban chính sách, thuế quốc tế, Cục Thuế (Bộ Tài chính).

Trả lời cho những thắc mắc của doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Thanh Hằng, Trưởng ban chính sách, thuế quốc tế, Cục Thuế (Bộ Tài chính) thừa nhận, về thời điểm xuất hoá đơn đã có trong Nghị định 70 năm 2025 và Thông tư số 32 năm 2025, quy định các trường hợp đặc thù nhưng đúng là chưa bao quát hết thực tiễn phát sinh.

“Cơ quan soạn thảo sẽ tiếp thu ý kiến và sắp tới đưa vào các Nghị định, thông tư ​hướng dẫn​ thực hiện Luật Quản lý thuế (sửa đổi), sao cho phù hợp và bao quát được hết các trường hợp, hoặc để Chính phủ linh hoạt quy định, thay vì đưa ‘cứng’ vào Luật”, đại diện Cục Thuế cho hay.

Xuân Thạch

Nguồn: vietnamfinance.vn

Bộ Tài chính đang dự thảo Nghị định Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Các Tiểu vương quốc Ả-rập Thống nhất giai đoạn 2025-2027.

Đề xuất Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt thực hiện Hiệp định CEPA- Ảnh 1.
Bộ Tài chính đề xuất Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt thực hiện Hiệp định CEPA

Bộ Tài chính cho biết, ngày 15/5/2025, Chính phủ đã có Nghị quyết số 130/NQ-CP phê duyệt Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Các Tiểu vương quốc Ả-rập Thống nhất (Hiệp định CEPA).

Trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Các Tiểu vương quốc Ả-rập Thống nhất (UAE), Việt Nam cam kết lộ trình cắt giảm/xóa bỏ thuế nhập khẩu tại Tiểu phụ lục 2A-b của Hiệp định. Mức độ tự do hóa thuế nhập khẩu của Việt Nam theo Hiệp định CEPA là 90,3% (không tính 264 mã hàng được phân loại là bộ linh kiện đồng bộ (CKD – Completely Knocked Down)), còn lại là các mặt hàng không cắt giảm thuế nhập khẩu và không cam kết. Cụ thể như sau:

Danh mục cam kếtSố dòng thuếTỷ lệ trên tổng biểu (trừ CKD)
Xóa bỏ thuế quan ngay356431,96%
Xóa bỏ sau 3 năm5544,97%
Xóa bỏ sau 5 năm6726,03%
Xóa bỏ sau 7 năm389434,92%
Xóa bỏ sau 10 năm138112,39%
Giữ nguyên thuế suất cơ sở10219,16%
Không cam kết640,57%
Tổng11150100%

Hiện nay, các biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam đang được ban hành với mã hàng và mô tả hàng hóa theo Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam phiên bản AHTN 2022 dự kiến áp dụng đến hết năm 2027. Sau năm 2027, các biểu thuế sẽ được áp dụng theo phiên bản AHTN 2028. Do đó, Bộ Tài chính đề xuất Chính phủ ban hành Nghị định Biểu thuế CEPA áp dụng cho giai đoạn 2025-2027.

Về quan hệ thương mại, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và UAE đạt 4,7 tỷ USD năm 2023, tăng lên 6,5 tỷ USD năm 2024. Việt Nam xuất siêu sang UAE với tỷ lệ xuất siêu năm 2024 tăng 40,1% so với năm 2023. Về kim ngạch nhập khẩu, năm 2024, Việt Nam nhập khẩu 850,7 triệu USD từ UAE, tăng 25,5% so với năm 2023. Dự kiến trong thời gian tới, khi hiệp định thương mại tự do giữa hai nước có hiệu lực thực thi sẽ thúc đẩy kim ngạch thương mại hai chiều theo hướng tích cực hơn nữa.

Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định CEPA giai đoạn 2025 – 2027

Bộ Tài chính đề xuất ban hành kèm theo Nghị định 01 biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam gồm mã hàng, mô tả hàng hóa, thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định CEPA áp dụng theo từng năm (từ ngày Hiệp định CEPA có hiệu lực đến hết ngày 31/12/2025, từ ngày 01/01/2026 đến hết ngày 31/12/2026, từ ngà 01/01/2027 đến hết ngày 31/12/2027), trong đó có một số mặt hàng nhập khẩu không được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Hiệp định CEPA.

Biểu thuế nêu trên được chiết xuất từ biểu lộ trình cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu của Việt Nam theo Hiệp định CEPA. Giai đoạn áp dụng của biểu thuế kèm theo Nghị định được ban hành từ khi Hiệp định có hiệu lực (dự kiến là năm 2025) đến hết năm 2027 (là thời hạn kết thúc áp dụng AHTN 2022 hiện hành) trong tổng lộ trình cắt giảm 10 năm cam kết theo Hiệp định. Mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định này được cắt giảm theo mô hình chi tiết quy định tại Hiệp định, tương ứng với các lộ trình: xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực, xóa bỏ thuế quan sau lộ trình 3 năm (B3), 5 năm (B5), 7 năm (B7), 10 năm (B10) (tương ứng về 0% từ năm thứ 4, năm thứ 6, năm thứ 8 và năm thứ 11), giữ nguyên thuế suất cơ sở, và không cam kết.

Trong giai đoạn 2025 – 2027, mức thuế suất trung bình theo năm của biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam theo Hiệp định CEPA lần lượt là 10,7%, 9,7% và 8,6%.

Điều kiện áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt

Theo dự thảo, hàng hóa nhập khẩu được áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định CEPA phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:

1. Thuộc Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt ban hành kèm theo Nghị định này.

2. Được nhập khẩu từ Các Tiểu vương quốc Ả-rập Thống nhất vào Việt Nam.

3. Đáp ứng các quy định về xuất xứ hàng hóa và có chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hoá theo quy định của Hiệp định CEPA và quy định hiện hành của pháp luật.

Hàng hóa từ khu phi thuế quan của Việt Nam

Bộ Tài chính đề xuất quy định hàng hóa từ khu phi thuế quan của Việt Nam nhập khẩu vào thị trường trong nước được áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định CEPA phải đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 và khoản 3 nêu trên.

Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.

Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ

Ngày 17/9/2025, Thuế TPHCM thông tin đến người nộp thuế về việc Thông tư 83/2025/TT-BTC có hiệu lực kể từ ngày 1/10/2025.

Đây là thông tư bãi bỏ Thông tư 138/2012/TT-BTC ngày 20/8/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn phân bổ giá trị lợi thế kinh doanh đối với công ty cổ phần được chuyển đổi từ công ty nhà nước.

Ảnh: vthuong

Tóm tắt Thông tư số 83/2025/TT-BTC ngày 15/8/2025 của Bộ Tài chính có hiệu lực kể từ ngày 1/10/2025:

1. Đối tượng áp dụng:

– Công ty cổ phần được chuyển đổi từ công ty nhà nước.

2. Nội dung bãi bỏ:

–  Không còn áp dụng quy định phân bổ giá trị lợi thế kinh doanh tối đa 10 năm vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.

– Không tiếp tục phân bổ đối với trường hợp doanh nghiệp đã thực hiện theo Thông tư 203/2009/TT-BTC (3 năm) mà chưa hết.

– Không thực hiện việc chuyển lỗ phát sinh từ hoạt động phân bổ lợi thế kinh doanh.

3. Hiệu lực thi hành:

Thông tư 83/2025/TT-BTC có hiệu lực kể từ ngày 1/10/2025. Như vậy, kể từ thời điểm này, toàn bộ quy định tại Thông tư số 138/2012/TT-BTC không còn được áp dụng.

Tài liệu đính kèm :

Phu luc I – Tom tat TT 83 ve bai bo TT 138.pdf (104 KB)

PV

Nguồn: Thuế Thành phố Hồ Chí Minh

Các dự án thuộc ngành nghề ưu tiên phát triển vào Trung tâm Tài chính Quốc tế, áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong thời gian 30 năm.

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý với dự thảo nghị định quy định về chính sách tài chính đối với Trung tâm Tài chính Quốc tế tại Việt Nam.

Tại dự thảo, Bộ Tài chính đề xuất công ty chứng khoán trong nước phải có vốn điều lệ thực góp và vốn chủ sở hữu tối thiểu là 5.000 tỷ đồng để được cấp giấy phép hoạt động. Với nhà đầu tư nước ngoài, mức tối thiểu dự kiến 190 triệu USD.

Ngoài điều kiện vốn, công ty chứng khoán trong và ngoài nước phải có thời gian hoạt động liên tục, không lỗ lũy kế và kinh doanh có lãi 2 năm liền trước thời điểm đề nghị cấp phép thành lập đơn vị thành viên trong trung tâm tài chính.

Họ cũng phải đảm bảo tổ chức mới thành lập có vốn điều lệ ít nhất 800 tỷ đồng, có tổng giám đốc và 10 nhân sự có chứng chỉ hành nghề chứng khoán.

Đáng chú ý, nghị định cũng đưa ra đề xuất các chính sách ưu đãi thuế nhằm thu hút đầu tư và nhân lực chất lượng cao.

Cụ thể, đối với các dự án thuộc ngành nghề ưu tiên phát triển vào Trung tâm Tài chính Quốc tế, áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong thời gian 30 năm, được miễn thuế tối đa không quá 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá 9 năm tiếp theo.

Đối với các dự án không thuộc ngành nghề ưu tiên phát triển vào Trung tâm Tài chính Quốc tế, mức thuế suất là 15% trong thời gian 15 năm, được miễn thuế tối đa không quá 2 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá 4 năm tiếp theo.

Về thuế thu nhập cá nhân, dự thảo Nghị định quy định nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học và người có trình độ chuyên môn cao làm việc tại Trung tâm Tài chính Quốc tế (bao gồm cả người Việt Nam và người nước ngoài) được miễn thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công có được từ thực hiện công việc tại Trung tâm Tài chính Quốc tế đến hết năm 2030.

Thời gian miễn thuế được tính liên tục từ tháng thu nhập phát sinh. Trường hợp phát sinh thu nhập trong tháng thì thời gian tính miễn thuế được tính đủ tháng.

Trường hợp bán toàn bộ doanh nghiệp do cá nhân làm chủ sở hữu dưới hình thức chuyển nhượng vốn có gắn với bất động sản thì kê khai và nộp thuế thu nhập cá nhân theo hoạt động chuyển nhượng bất động sản.

“Những khoản thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân không được quy định trong nghị định sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế”, dự thảo nêu rõ.

Dự thảo Nghị định cũng quy định miễn thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp, quyền góp vốn, quyền mua cổ phần hoặc quyền mua phần vốn góp vào doanh nghiệp tại Trung tâm Tài chính Quốc tế đến hết năm 2030.

Trừ thu nhập từ chuyển nhượng cổ phiếu, quyền mua cổ phiếu của công ty đại chúng, tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch theo quy định của pháp luật về chứng khoán.

Ngày 27/6, Quốc hội thông qua Nghị quyết phát triển trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam, với hơn 93,5% đại biểu tán thành.

Nghị quyết này có hiệu lực từ 1/9, định hướng xây dựng trung tâm tài chính tại TP.HCM và Đà Nẵng, với cơ chế quản lý thống nhất nhưng phát triển sản phẩm đặc thù theo thế mạnh từng địa phương.

TP.HCM sẽ tập trung vào thị trường vốn, ngân hàng, tiền tệ, sandbox fintech và sàn giao dịch chuyên biệt. Đà Nẵng phát triển tài chính xanh, công nghệ tài chính, dịch vụ số và thử nghiệm có kiểm soát một số mô hình mới như tài sản số, tiền số, đồng thời cho phép lập các sàn và nền tảng giao dịch mới.

Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký ban hành Nghị quyết thí điểm thị trường tài sản mã hóa trong 5 năm, sau đó tiếp tục vận hành cho tới khi có quy định mới.

Theo đó, doanh nghiệp Việt Nam muốn mở sàn giao dịch tài sản mã hóa phải góp đủ vốn điều lệ tối thiểu 10.000 tỷ đồng, đồng thời đáp ứng loạt điều kiện về cổ đông, nhân sự, nghiệp vụ…

Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài vào tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa không được vượt quá 49% vốn điều lệ của tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa.

Mai Anh

Nguồn: vietnamfinance.vn

Trong các ngày từ 16-18/9, Đoàn công tác Cục Thuế Việt Nam do Phó Cục trưởng Mai Sơn dẫn đầu đã tham dự Hội nghị cấp cao thường niên SGATAR lần thứ 54 tại thành phố Brisbane (Australia).

Hội nghị SGATAR năm 2025 có 18 đoàn đại biểu của khối SGATAR đến từ các quốc gia và vùng lãnh thổ.

Đại diện Lãnh đạo Cơ quan Thuế Australia phát biểu tại hội nghị.

Sáng ngày 16/9, Lễ khai mạc Hội nghị cấp cao thường niên SGATAR lần thứ 54 được tổ chức trọng thể với sự có mặt của lãnh đạo cấp cao các cơ quan thuế khu vực châu Á – Thái Bình Dương; đại diện các tổ chức quốc tế như IMF, OECD, Ngân hàng Thế giới và các khách mời quốc tế.

Mở đầu sự kiện, ông Rob Heferen – Tổng cục trưởng Cơ quan Thuế Australia – nước chủ trì SGATAR 54 đã có bài phát biểu quan trọng chào mừng các đoàn tham dự và khẳng định cam kết tăng cường hợp tác giữa các cơ quan thuế trong khu vực.

Hội nghị cấp cao SGATAR (Study Group on Asian Tax Administration and Research) là sự kiện thường niên dành cho lãnh đạo cao nhất của các cơ quan thuế thuộc khối SGATAR. Đây là diễn đàn quan trọng để các nước thành viên tăng cường hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, thắt chặt quan hệ hữu nghị và hỗ trợ lẫn nhau trong công tác quản lý thuế trong khu vực.

Diễn đàn SGATAR mà tiền thân là Nhóm nghiên cứu về quản lý thuế châu Á – Thái Bình Dương (gọi tắt là SGATAR) được Hội nghị Bộ trưởng các nước Đông Nam Á về Phát triển Kinh tế (SEAMCED) lần thứ 5 thành lập vào năm 1970 với mục tiêu là tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thuế giữa các nước thành viên để không ngừng cải cách và nâng cao hiệu quả quản lý hành chính thuế.

Có thể khẳng định, sau 54 lần được tổ chức, các nước thuộc khối SGATAR  trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã ngày càng tăng cường tính thống nhất về chính sách và quản lý các sắc thuế nội địa giữa các thành viên thông qua việc thúc đẩy hợp tác, trao đổi kiến thức, kinh nghiệm, sáng kiến giải quyết các thách thức đặt ra với công tác quản lý thuế tại các nước thành viên (ví dụ: Xác định giá chuyển nhượng của Công ty đa quốc gia, thuế với nền kinh tế kỹ thuật số, trao đổi thông tin để chống lại tình trạng trốn thuế quốc tế…).

Phó Cục trưởng Cục Thuế Mai Sơn và lãnh đạo cơ quan thuế các quốc gia và vùng lãnh thổ cùng đại diện các tổ chức tài chính quốc tế tại phiên khai mạc.

Qua từng giai đoạn, các thành viên SGATAR ngày càng được mở rộng thông qua việc kết nạp các thành viên mới. Tại hội nghị lần này, với việc kết nạp Fiji, các cơ quan quản lý thuế của các thành viên Diễn đàn SGATAR đã tăng lên thành 19 quốc gia và vùng lãnh thổ, bao gồm: Ô-xtrây-lia, Trung Quốc, Hồng Kông, Inđônêsia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ma-lay-sia, Niu Di-lân, Phi-lip-pin, Xing-ga-po, Đài Loan, Thái Lan, Việt Nam, Macao, Mông Cổ, Papua Niu Ghinê, Campuchia, Lào và Fiji.

Đối với Việt Nam, là quốc gia chính thức trở thành thành viên SGATAR từ Hội nghị cấp cao thường niên lần thứ 33 tại Hàn Quốc vào năm 2003. Qua 21 kỳ tham dự các Hội nghị cấp cao SGATAR, Việt Nam đã tham gia và hưởng nhiều lợi ích từ các hoạt động SGATAR do các nước khác chủ trì, từ trợ giúp của cơ quan thuế các nước  thành viên.

Việc tổ chức các hội thảo/khóa đào tạo tại Việt Nam là nghĩa vụ của thành viên, đồng thời cũng là hoạt động góp phần củng cố quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với cơ quan thuế các nước thành viên SGATAR nhằm đáp ứng các nhu cầu của ngành Thuế trong bối cảnh hội nhập.

Việc tham gia SGATAR đã nâng cao vị thế của Việt Nam trong diễn đàn khu vực về chính sách và quản lý thuế, tạo điều kiện cho ngành Thuế tiếp cận và nắm bắt các phương pháp quản lý thuế hiện đại, học hỏi và trao đổi kinh nghiệm để hoàn thiện quản lý thuế và cải cách thuế, tăng cường các mối quan hệ hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực thuế.

Hội nghị cấp cao thường niên SGATAR sẽ có cuộc họp quan trọng cấp Tổng cục trưởng nhằm cập nhật các vấn đề nổi bật về quản lý thuế trong năm tại từng nước thành viên, trao đổi các vấn đề và thách thức liên quan tới vấn đề thuế trong khu vực và quốc tế, quan điểm và phương hướng hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm quản lý thuế trong SGATAR.

Trong khuôn khổ phiên khai mạc hội nghị được tổ chức sáng nay 16/9, hội nghị đã thông qua một số nội dung quan trọng, gồm:

Thứ nhất, Fiji chính thức gia nhập SGATAR, trở thành thành viên thứ 19 của khối.

Thứ hai, Tổng cục trưởng Cơ quan Thuế Australia được bầu làm Chủ tịch SGATAR lần thứ 54.

Thứ ba, các Trưởng đoàn thống nhất thông qua chương trình làm việc chính thức và các quy định tổ chức của Hội nghị năm 2025.

Quang cảnh phiên khai mạc hội nghị SGATAR 54

Đồng thời, trong khuôn khổ chương trình hội nghị sẽ có các phiên thảo luận chuyên sâu về những vấn đề quan trọng trong quản lý thuế khu vực và cập nhật các xu hướng thuế quốc tế năm 2025. Song song với đó là Diễn đàn Trưởng đoàn và 03 cuộc họp cấp kỹ thuật.

Đối với các nội dung thảo luận của Diễn đàn của các Trưởng đoàn sẽ tập trung vào 03 chủ đề chính, bao gồm: Chủ đề 1, xử lý tội phạm thuế và phát hiện gian lận thuế; Chủ đề 2, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong quản lý thuế; Chủ đề 3, cập nhật cải cách thuế.

Theo kế hoạch, tại phiên họp ngày 17/9, Phó Cục trưởng Mai Sơn sẽ tham gia thảo luận Chủ đề 3: Cập nhật cải cách thuế. Tại phiên họp này, Phó Tổng cục trưởng Mai Sơn sẽ chia sẻ tình hình và định hướng cải cách thuế tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số.

Bên cạnh các phiên làm việc của Diễn đàn Trưởng đoàn, trong 03 ngày, Ban tổ chức hội nghị sẽ tổ chức các cuộc họp cấp kỹ thuật tập trung vào 03 nhóm chủ đề trọng tâm, như: (i) Xác định giá chuyển nhượng liên quan đến giao dịch dịch vụ nội bộ tập đoàn; (ii) Thách thức từ việc số hóa quản lý thuế; (iii) Quản lý rủi ro tuân thủ thuế – cải thiện tuân thủ trong thị trường doanh nghiệp nhỏ.

Vân Anh

Nguồn: https://www.gdt.gov.vn

3 trong số các doanh nghiệp nợ thuế hàng trăm tỷ đồng thuộc lĩnh vực bất động sản, có thể kể đến bất động sản Hà An, Hưng Phát, Nam Kim.

Empty

Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh vừa công bố Thông báo số 7377/TB-TPHCM về 195 doanh nghiệp nợ thuế và các khoản thu khác tính đến cuối tháng 7/2025, với tổng số tiền gần 1.187 tỷ đồng. Trong số này, đáng chú ý có 3 doanh nghiệp bất động sản nợ thuế hơn 100 tỷ đồng.

Dẫn đầu là CTCP Đầu tư Kinh doanh Bất động sản Hà An – công ty con của Đất Xanh Group – với khoản nợ thuế hơn 254 tỷ đồng. Hà An là chủ đầu tư nhiều dự án lớn như Gem Sky World (Đồng Nai), chung cư Opal Skyline, Opal Boulevard và Datxanhhomes Riverside (tiền thân dự án Gem Riverside) tại TP. Hồ Chí Minh.

Loạt doanh nghiệp bất động sản nợ hàng trăm tỷ đồng tiền thuế- Ảnh 1.
3 doanh nghiệp trong lĩnh vực bất động sản là Hà An, Hưng Phát và Nam Kim đứng đầu danh sách doanh nghiệp nợ thuế vừa được Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh công bố

Tiếp theo, Công ty TNHH Xây dựng Bất động sản Hưng Phát nợ hơn 133 tỷ đồng. Doanh nghiệp này là chủ đầu tư dự án đất nền Florence Resident tại phường Thuận Giao, TP. Hồ Chí Minh (trước đây thuộc TP. Thuận An, Bình Dương).

Đứng thứ ba là CTCP Đầu tư Xây dựng Công nghiệp Nam Kim, liên quan Kim Oanh Group, nợ hơn 119 tỷ đồng. Nam Kim hiện triển khai dự án K-Home New City tại Bình Dương. Nam Kim có vốn điều lệ gần 1.000 tỷ đồng và là thành viên khá tiềm lực của Kim Oanh Group.

Đáng chú ý, hồi tháng 2/2025, Công ty cổ phần Đầu tư xây dựng Công nghiệp Nam Kim cũng bị Cục Thuế Bình Dương gọi tên vì nợ thuế. Thời điểm đó, Nam Kim đứng đầu danh sách nợ thuế của Bình Dương với số nợ hơn 136,5 tỷ đồng.

Ngoài ra, có 12 doanh nghiệp nợ thuế từ 10 – 90 tỷ đồng, phần lớn cũng thuộc lĩnh vực bất động sản. Trong đó, Kim Oanh Group nợ 71,4 tỷ đồng; DCT Partners Việt Nam 55,5 tỷ đồng; Thuận Lợi 27,7 tỷ đồng; Tân Phước Vĩnh 17,8 tỷ đồng; Khoáng sản và Xây dựng Bình Dương 13 tỷ đồng.

Danh sách còn ghi nhận 35 doanh nghiệp nợ từ 1 – 10 tỷ đồng, như Xuất nhập khẩu Hoàng Sinh nợ 8,2 tỷ đồng; BĐS Cao ốc Thiên Long hơn 6 tỷ đồng; chi nhánh Mai Linh tại Bình Dương hơn 3 tỷ đồng.

Theo tìm hiểu, CTCP Đầu tư Xây dựng Công nghiệp Nam Kim thành lập tháng 6/2013. Ngành nghề chính của công ty là kinh doanh bất động sản, quyền sử dụng đất thuộc chủ sở hữu, chủ sử dụng hoặc đi thuê.

Tại thời điểm tháng 9/2023, doanh nghiệp thực hiện tăng vốn điều lệ từ 338 tỷ đồng lên gần 496,2 tỷ đồng. Đại diện pháp luật của doanh nghiệp khi này là bà Nguyễn Thị Nhung (SN 1992) kiêm Chủ tịch/Tổng giám đốc.

Tới tháng 7/2024, Đầu tư Xây dựng Công nghiệp Nam Kim thay đổi người đại diện pháp luật sang ông Vũ Văn Vũ (SN 1988) kiêm Tổng Giám đốc.

Tại thay đổi mới nhất vào tháng 7/2025, doanh nghiệp có vốn điều lệ đạt gần 996,2 tỷ đồng, cơ cấu cổ đông góp vốn không được tiết lộ. Đại diện pháp luật/Tổng Giám đốc vẫn là ông Vũ Văn Vũ. Thông tin về thuế cho thấy, doanh nghiệp có tổng số lao động là 10 người.

Theo tìm hiểu, Đầu tư Xây dựng Công nghiệp Nam Kim là thành viên của Kim Oanh Group.

Hà Khê

Nguồn: VNFINANCE.VN

Doanh thu thuế quan Mỹ đạt kỷ lục 171,9 tỷ USD, Tổng thống Trump kỳ vọng thay thế thuế thu nhập.

Quang cảnh cảng hàng hóa Long Beach ở Los Angeles, Mỹ. (Ảnh: THX/TTXVN)Quang cảnh cảng hàng hóa Long Beach ở Los Angeles, Mỹ. (Ảnh: THX/TTXVN)

Bộ Tài chính Mỹ mới đây đã công bố doanh thu từ thuế nhập khẩu đã đạt mức kỷ lục mới 30,1 tỷ USD trong tháng 8, nâng tổng mức thuế quan thu được kể từ tháng 10 năm ngoái (thời điểm bắt đầu năm tài chính) lên con số kỉ lục 171,9 tỷ USD. Đây là hệ quả trực tiếp của chính sách tăng thuế nhập khẩu mạnh mẽ của chính quyền Tổng thống Trump từ tháng 4 năm nay. Theo tờ Wall Street Journal, ông Trump đang xem thuế nhập khẩu là phương tiện thay thế cho thuế thu nhập, có khả năng trở thành nguồn thu lớn cho ngân sách.

Các quan chức của Tổng thống Trump cho rằng, các thuế quan hiện tại là tạm thời và nhằm giải quyết những tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, người đứng đầu Nhà Trắng đang đặt ra kì vọng các mức thuế quan sẽ tăng lên hơn 3.900 tỷ USD trong thập kỷ tới, chiếm khoảng 1% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thay cho thuế thu nhập.

Giới phân tích đang nghiên cứu: Liệu thuế quan có thay thế được thuế thu nhập không?

Thuế thu nhập cá nhân tại Mỹ năm 2024 là hơn 2.200 tỷ USD, tức khoảng 50% tổng thu ngân sách liên bang. Như vậy, 171,9 tỷ USD thuế quan trong 11 tháng vẫn chỉ bằng chưa tới 8% thuế thu nhập cá nhân. Và để đạt con số 3.900 tỷ USD trong 10 năm như Tổng thống Trump kỳ vọng, Mỹ sẽ phải duy trì mức thuế quan cực cao và ổn định. Điều này khó khả thi.

Mới nhất, Tòa án Tối cao Mỹ vừa quyết định đồng ý tiếp nhận kháng cáo của Tổng thống Donald Trump liên quan đến phán quyết của Tòa phúc thẩm trước đó, bác bỏ hầu hết các mức thuế quan toàn cầu của Tổng thống Mỹ. Hiến pháp Mỹ giao trách nhiệm về thuế và thuế quan cho Quốc hội, nhằm đảm bảo kiểm soát và cân bằng quyền lực.

Hiện Tòa án Tối cao đang xem xét mức độ phù hợp của các hành động của Nhà Trắng với những tiêu chuẩn pháp lý hiện hành. Nếu Tòa án ủng hộ Tổng thống Trump thì có thể mở đường cho việc thực thi một loạt loại thuế khác, mà không cần sự chấp thuận của Quốc hội, tác động mạnh đến nền kinh tế và doanh nghiệp.

PV

Nguồn: VTV.vn