Chủ quản nền tảng phải xác thực danh tính người livestream, công khai và thực hiện cơ chế, biện pháp kiểm soát theo thời gian thực nội dung livestream bán hàng.

Livestream bán hàng nhiều tỷ đồng nhưng không thu được thuế

Sáng 22/9, tiếp tục chương trình phiên họp thứ 49, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Thương mại điện tử.

Trình bày tờ trình, Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Sinh Nhật Tân nhấn mạnh xu hướng phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử là hoạt động livestream bán hàng.

Theo Thứ trưởng, quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động livestream bán hàng giống như một hoạt động quảng cáo đi kèm với bán hàng, mà chưa có các quy định riêng về các chủ thể tham gia livestream (chủ tài khoản, người tham gia livestream), các trường thông tin tối thiểu phải cung cấp cho người xem, trình độ chuyên môn của người thực hiện livestream, định danh chủ tài khoản, nghĩa vụ nộp thuế và các vấn đề về kiểm soát thông tin trong quá trình phát livestream.

“Việc các mô hình, xu hướng trên vượt ra ngoài phạm vi điều chỉnh của các chính sách hiện hành khiến cho công tác quản lý gặp nhiều khó khăn nhất là trong các vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ dữ liệu cá nhân, chống thất thu thuế”, ông Tân cho hay.

Livestream bán hàng phải xác thực danh tính - Ảnh 1.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân

Thứ trưởng Bộ Công Thương cũng nêu thực tiễn đã có nhiều vụ việc như các phiên livestream bán hàng nhiều tỷ đồng nhưng Nhà nước không thu được thuế hay hoa hậu quốc tế thực hiện livestream bán kẹo rau củ, thổi phồng chức năng của sản phẩm, ảnh hưởng rất lớn đến quyết định mua hàng và sức khỏe của người tiêu dùng.

Ngoài ra, với hoạt động thương mại điện tử xuyên biên giới phát triển mạnh mẽ những năm gần giúp người tiêu dùng Việt Nam được hưởng lợi khi có thể tiếp cận với hàng hóa, dịch vụ toàn cầu.

Song hành với đó là những tồn tại, bất cập như: Kiểm soát chất lượng hàng nhập khẩu qua thương mại điện tử, rủi ro như hàng giả, hàng kém chất lượng, gian lận giao dịch, bảo vệ sản xuất trong nước…

Định danh người bán trong nước qua VNeID

Trước các thực tế trên, theo Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân, dự thảo Luật Thương mại điện tử quy định 4 mô hình hoạt động thương mại điện tử: Nền tảng thương mại điện tử kinh doanh trực tiếp; Nền tảng thương mại điện tử trung gian; Mạng xã hội hoạt động thương mại điện tử; Nền tảng tích hợp đa dịch vụ.

Tại đây, nền tảng thương mại điện tử phải đảm bảo các thông tin sau được công bố công khai và minh bạch: Thông tin về chủ sở hữu; Thông tin về người bán; Thông tin về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ…

Chủ quản nền tảng có trách nhiệm: Định danh người bán trong nước qua VNeID; Định danh người bán nước ngoài thông qua giấy tờ chứng minh tính hợp pháp.

Ngoài ra, thông tin về hàng hóa, dịch vụ đã đăng tải trên nền tảng tối thiểu 1 năm kể từ thời điểm đăng tải; Thông tin liên quan đến nội dung cơ bản của hợp đồng giao dịch trên nền tảng trong thời gian tối thiểu 3 năm kể từ thời điểm giao kết hợp đồng.

Livestream bán hàng phải xác thực danh tính - Ảnh 2.
Người livestream không được cung cấp thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn về công dụng, xuất xứ, chất lượng, giá cả, khuyến mại, chính sách bảo hành và các nội dung khác liên quan đến hàng hoá, dịch vụ
(Ảnh minh hoạ)

Đối với hoạt động bán hàng livestream, chủ quản nền tảng phải xác thực danh tính người livestream, công khai và thực hiện cơ chế, biện pháp kiểm soát theo thời gian thực nội dung bán hàng livestream.

Với người bán, phải cung cấp cho người livestream các tài liệu pháp lý chứng minh đáp ứng điều kiện.

Người livestream không được cung cấp thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn về công dụng, xuất xứ, chất lượng, giá cả, khuyến mại, chính sách bảo hành và các nội dung khác liên quan đến hàng hoá, dịch vụ.

Thực hiện đúng nội dung quảng cáo đã được cơ quan có thẩm quyền xác nhận đối với hàng hoá, dịch vụ thuộc trường hợp pháp luật quy định phải xác nhận nội dung quảng cáo.

Theo số liệu của Bộ Công thương, quy mô thị trường thương mại điện tử Việt đạt trên 25 tỷ USD trong năm ngoái, tăng trưởng 20% so với cùng kỳ.

Lĩnh vực này chiếm khoảng 10% tổng mức bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng cả nước, đứng thứ 3 Đông Nam Á. Dự kiến năm 2030, quy mô thị trường xấp xỉ 63 tỷ USD.

Thùy An

Nguồn: VTV.vn

Tại dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Bộ Tài chính đề xuất quy định về hoàn thuế, khấu trừ thuế.

Bộ Tài chính cho biết, về hoàn thuế, tại khoản 1 Điều 9 Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) quy định:

“1. Người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt được hoàn thuế đã nộp trong các trường hợp sau:

a) Hàng hóa là nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu ra nước ngoài.

Việc hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định tại điểm này chỉ thực hiện đối với số lượng hàng hoá thực tế xuất khẩu ra nước ngoài;

b) Quyết toán thuế khi giải thể, phá sản có số thuế tiêu thụ đặc biệt chưa được khấu trừ hết.

Trường hợp tổ hợp tác chuyển đổi thành hợp tác xã thì hợp tác xã được kế thừa số thuế tiêu thụ đặc biệt nộp thừa hoặc chưa được khấu trừ hết của tổ hợp tác để khấu trừ, hoàn thuế theo quy định;

c) Hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”

Luật Thuế TTĐB hiện hành có quy định tại điểm c và d khoản 1 Điều 8 như sau:

“c) Quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản, chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi doanh nghiệp, chấm dứt hoạt động có số thuế nộp thừa;

d) Có quyết định hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và trường hợp hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”

Tại Điều 6 Nghị định số 108/2015/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 2, Điều 1 Nghị định số 14/2019/NĐ-CP) quy định các trường hợp được hoàn thuế và thủ tục hồ sơ giải quyết hoàn thuế.

Trên cơ sở kế thừa các quy định đang được thực hiện ổn định và để quy định rõ ràng cho việc hoàn thuế, căn cứ Luật Quản lý thuế có quy định hoàn thuế (bao gồm 02 trường hợp là: hoàn nộp thừa và hoàn theo pháp luật về thuế và bản chất của 02 trường hợp này là nộp thừa), Bộ Tài chính trình đề xuất quy định chi tiết về hoàn thuế tại khoản 1 và 2 Điều 8 dự thảo Nghị định như sau:

Việc hoàn thuế, khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt thực hiện theo quy định tại Điều 9 của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt. Một số trường hợp được quy định như sau:

“1. Đối với trường hợp hàng hóa là nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu ra nước ngoài tại điểm a khoản 1 Điều 9 Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt thì được hoàn lại số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp tương ứng với số nguyên liệu dùng để sản xuất hàng hóa thực tế xuất khẩu ra nước ngoài.

Hồ sơ, trình tự, thẩm quyền giải quyết hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa là nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu được thực hiện theo quy định về hoàn thuế nhập khẩu tại pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và pháp luật có liên quan.

2. Đối với trường hợp hoàn thuế quy định tại điểm b và c khoản 1 Điều 9 Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt:

a) Quyết toán thuế khi giải thể, phá sản có số thuế tiêu thụ đặc biệt chưa được khấu trừ hết.

Trường hợp tổ hợp tác chuyển đổi thành hợp tác xã thì hợp tác xã được kế thừa số thuế tiêu thụ đặc biệt nộp thừa hoặc chưa được khấu trừ hết của tổ hợp tác để khấu trừ, hoàn thuế theo quy định.

b) Hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

c) Hồ sơ, trình tự, thẩm quyền giải quyết hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt nộp thừa quy định tại khoản này thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.”

Đề xuất quy định về hoàn thuế, khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt- Ảnh 1.
Bộ Tài chính đề xuất quy định về hoàn thuế, khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt

Về khấu trừ thuế

Theo Bộ Tài chính, tại khoản 2 và 3 Điều 9 Luật Thuế TTĐB quy định:

“2. Người nộp thuế sản xuất hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bằng nguyên liệu đã nộp thuế tiêu thụ đặc biệt, nếu có chứng từ hợp pháp thì được khấu trừ số thuế đã nộp đối với nguyên liệu khi xác định số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp ở khâu sản xuất.

Đối với người nộp thuế được phép sản xuất, pha chế xăng sinh học, số thuế tiêu thụ đặc biệt chưa được khấu trừ hết của xăng khoáng nguyên liệu dùng để sản xuất, pha chế xăng sinh học (bao gồm cả số thuế chưa được khấu trừ hết của kỳ khai thuế trước đó liền kề) được bù trừ với số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp của hàng hóa, dịch vụ khác phát sinh trong kỳ.

Trường hợp sau khi bù trừ, còn số thuế tiêu thụ đặc biệt chưa được khấu trừ hết của xăng khoáng nguyên liệu dùng để sản xuất, pha chế xăng sinh học thì được khấu trừ vào kỳ tiếp theo hoặc được hoàn trả.

Nguồn hoàn trả thuế tiêu thụ đặc biệt được lấy từ số thu của ngân sách trung ương về thuế tiêu thụ đặc biệt.

3. Người nộp thuế nhập khẩu hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt được khấu trừ số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp ở khâu nhập khẩu khi xác định số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp ở khâu bán ra”.

Tại Điều 7 Nghị định số 108/2015/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại Điều 3 Nghị định số 14/2019/NĐ-CP) đã quy định cụ thể về các trường khấu trừ thuế, điều kiện khấu trừ thuế và hồ sơ thủ tục hoàn trả thuế TTĐB đối với xăng khoáng nguyên liệu dùng để để sản xuất, pha chế xăng sinh học.

Trên cơ sở kế thừa các quy định đang được thực hiện ổn định, Bộ Tài đề xuất quy định chi tiết về khấu trừ thuế tại khoản 3, 4, 5, 6, 7 và 8 Điều 8 dự thảo Nghị định như sau:

“3. Người nộp thuế sản xuất hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bằng các nguyên liệu chịu thuế tiêu thụ đặc biệt được khấu trừ số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp đối với nguyên liệu nhập khẩu (bao gồm cả số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp theo Quyết định ấn định thuế của cơ quan hải quan, trừ trường hợp cơ quan hải quan xử phạt về gian lận, trốn thuế) hoặc đã trả đối với nguyên liệu mua trực tiếp từ tổ chức, cá nhân sản xuất trong nước khi xác định số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp.

Số thuế tiêu thụ đặc biệt được khấu trừ tương ứng với số thuế tiêu thụ đặc biệt của nguyên liệu đã sử dụng để sản xuất hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bán ra. Đối với số thuế tiêu thụ đặc biệt không được khấu trừ, người nộp thuế được tính vào chi phí để tính thuế thu nhập doanh nghiệp.

4. Đối với mặt hàng xăng sinh học:

a) Số thuế tiêu thụ đặc biệt được khấu trừ của kỳ khai thuế được căn cứ vào số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp hoặc đã trả tương ứng với số thuế tiêu thụ đặc biệt của lượng nguyên liệu mua vào của kỳ khai thuế trước liền kề của xăng khoáng để sản xuất xăng sinh học.

b) Đối với các doanh nghiệp được phép sản xuất, pha chế xăng sinh học, việc kê khai nộp thuế, khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt được thực hiện tại cơ quan thuế địa phương nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Số thuế tiêu thụ đặc biệt chưa được khấu trừ hết của xăng khoáng nguyên liệu dùng để sản xuất, pha chế xăng sinh học được bù trừ với số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp của hàng hóa, dịch vụ khác phát sinh trong kỳ.

Trường hợp sau khi bù trừ, còn số thuế tiêu thụ đặc biệt chưa được khấu trừ hết của xăng khoáng nguyên liệu dùng để sản xuất, pha chế xăng sinh học thì được khấu trừ vào kỳ tiếp theo hoặc hoàn trả theo quy định của Bộ Tài chính.

c) Nguồn hoàn trả thuế tiêu thụ đặc biệt quy định tại khoản này được lấy từ số thu về thuế tiêu thụ đặc biệt của ngân sách trung ương từ hàng hóa nhập khẩu.

5. Người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nhập khẩu được khấu trừ số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp ở khâu nhập khẩu (bao gồm cả số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp theo Quyết định ấn định thuế của cơ quan hải quan, trừ trường hợp cơ quan hải quan xử phạt về gian lận, trốn thuế) khi xác định số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp bán ra trong nước.

Số thuế tiêu thụ đặc biệt được khấu trừ tương ứng với số thuế tiêu thụ đặc biệt của hàng hóa nhập khẩu chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bán ra và chỉ được khấu trừ tối đa bằng tương ứng số thuế tiêu thụ đặc biệt được tính ở khâu bán ra trong nước.

Phần chênh lệch không được khấu trừ giữa số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp ở khâu nhập khẩu với số thuế tiêu thụ đặc biệt bán ra trong nước, người nộp thuế được hạch toán vào chi phí để tính thuế thu nhập doanh nghiệp.

6. Chứng từ để khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt đối với trường hợp nhập khẩu nguyên liệu chịu thuế tiêu thụ đặc biệt để sản xuất hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và trường hợp nhập khẩu hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là chứng từ nộp thuế tiêu thụ đặc biệt khâu nhập khẩu.

7. Chứng từ để được khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt đối với trường hợp mua nguyên liệu trực tiếp của nhà sản xuất trong nước:

a) Hợp đồng mua bán hàng hóa, trong hợp đồng phải có nội dung thể hiện hàng hóa do tổ chức, cá nhân bán hàng trực tiếp sản xuất; bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh.

b) Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt theo quy định tại Nghị định số 181/2025/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2025 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng.

c) Chứng từ để làm căn cứ khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt là hóa đơn giá trị gia tăng khi mua hàng. Số thuế tiêu thụ đặc biệt mà tổ chức, cá nhân mua hàng đã trả khi mua nguyên liệu được xác định bằng (=) giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt nhân (x) thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt; trong đó: 

Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt=Giá mua chưa có thuế giá trị gia tăng (thể hiện trên hóa đơn giá trị gia tăng)Thuế bảo vệ môi trường (nếu có)
1 + Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt

8. Việc khấu trừ tiền thuế tiêu thụ đặc biệt được thực hiện khi kê khai thuế tiêu thụ đặc biệt và số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp được xác định theo công thức sau:

Số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp=Số thuế tiêu thụ đặc biệt của hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt được bán ra trong kỳSố thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp đối với hàng hóa, nguyên liệu ở khâu nhập khẩu hoặc số thuế tiêu thụ đặc biệt đã trả ở khâu nguyên liệu mua vào tương ứng với số hàng hóa được bán ra trong kỳ

Trường hợp chưa xác định được chính xác số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp (hoặc đã trả) cho số hàng hóa tương ứng với số sản phẩm tiêu thụ trong kỳ thì có thể căn cứ vào số liệu của kỳ trước để tính số thuế tiêu thụ đặc biệt được khấu trừ và sẽ xác định theo số thực tế vào cuối quý hoặc cuối năm.

Số thuế tiêu thụ đặc biệt được phép khấu trừ tối đa không vượt quá số thuế tiêu thụ đặc biệt tính cho phần hàng hóa theo tiêu chuẩn định mức kinh tế kỹ thuật của sản phẩm.”

Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.

PV

Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ

Hội đồng phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường theo phương thức đấu giá năm 2025 đã có Thông báo về việc tổ chức phân giao hạn ngạch thuế quan vào ngày 22/9/2025.

Đây là căn cứ để các thương nhân, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện việc tổ chức phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường theo phương thức đấu giá năm 2025.

Căn cứ Thông tư số 11/2022/TT-BCT ngày 27/6/2022 của Bộ trưởng Bộ Công thương quy định về việc phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đối với mặt hàng đường theo phương thức đấu giá, Quyết định số 2260/QĐ-BCT ngày 15/9/2025 của Bộ trưởng Bộ Công thương về lượng, thời điểm, phương thức phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường năm 2025;

Đồng thời căn cứ Quyết định số 2259/QĐ-BCT ngày 15/9/2025 của Bộ trưởng Bộ Công thương về việc thành lập Hội đồng phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường theo phương thức đấu giá năm 2025;

Căn cứ Hội đồng phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường theo phương thức đấu giá năm 2025 đã có Thông báo về việc tổ chức phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường theo phương thức đấu giá năm 2025 ngày 22/9/2025 để các thương nhân, tổ chức và cá nhân có liên quan tổ chức thực hiện. 

Căn cứ theo đó:

1. Thương nhân trực tiếp sử dụng đường làm nguyên liệu sản xuất và thương nhân sử dụng đường thô để sản xuất đường tinh luyện được đề nghị phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường theo phương thức đấu giá (theo quy định tại Điều 3 Thông tư số 11/2022/TT-BCT ngày 27 tháng 6 năm 2022 của Bộ trưởng Bộ Công thương). 

2. Lượng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường (mã HS 17.01) phân giao năm 2025 theo phương thức đấu giá là 133.000 tấn (một trăm ba mươi ba nghìn tấn).

3. Giá khởi điểm là 2.250.000 đồng/tấn, bước giá là 50.000 đồng/tấn, tiền đặt trước: (giá khởi điểm x số lượng đường đăng ký phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu) x 10%.

4. Hồ sơ đề nghị phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường  theo phương thức đấu giá năm 2025 thực hiện theo quy định tại Thông báo.

5. Thời điểm nhận hồ sơ tính theo dấu công văn đến của Bộ Công thương, từ 08 giờ ngày 22/8/2025 đến 17 giờ ngày 6/10/2025.

Nội dung chi tiết của Thông báo về việc tổ chức phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường theo phương thức đấu giá năm 2025, tại đây.

Quốc Nguyên

 Nguồn: Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công thương

Công ty Dịch vụ Kế toán & Tư vấn Thuế Đầu Xuân Đức vừa tổ chức thành công Hội nghị “Cập nhật tổng quan chính sách thuế mới tác động trực tiếp đến doanh nghiệp và hành động của chúng ta”.

Hội nghị diễn ra ngày 20/9/2025, tại TP Đà Nẵng và đã thu hút gần 150 khách hàng đại diện doanh nghiệp và hộ kinh doanh, cá nhân có hoạt động mua bán hàng trực tuyến, thương mại điện tử tham gia.

Phát biểu khai mạc hội nghị, ông Đầu Xuân Đức – Chủ tịch HĐTV Công ty Dịch vụ Kế toán & Tư vấn Thuế Đầu Xuân Đức (DC), Ủy viên Ban Thường vụ Hội Doanh nhân trẻ TP Đà Nẵng, cho hay: “Sự hiện diện của đông đủ đại diện các doanh nghiệp và hộ kinh doanh – những khách hàng, đối tác thân thiết của DC, đã cho thấy mối quan tâm rất lớn tới việc cập nhật và tuân thủ chính sách thuế, chủ động phòng ngừa rủi ro để doanh nghiệp cùng các cá nhân kinh doanh phát triển bền vững”.

Chuyên gia thuế Đầu Xuân Đức chia sẻ với doanh nghiệp và hộ kinh doanh tại hội thảo.

Hội thảo thu hút gần 150 doanh nghiệp và hộ kinh doanh, cá nhân có hoạt động mua bán hàng trực tuyến, thương mại điện tử tham gia.

“Trong hơn 20 năm đồng hành cùng doanh nghiệp, chúng tôi chứng kiến ngành Thuế không ngừng chuyển đổi và tái cấu trúc mạnh mẽ. Hệ thống quản lý thuế ngày càng hiện đại, minh bạch, các yêu cầu tuân thủ pháp luật thuế ngày càng rõ ràng và triển khai ứng dụng công nghệ thông tin cũng rất triệt để.

Điều này vừa tạo thuận lợi, vừa đặt ra áp lực mới, đòi hỏi doanh nghiệp, hộ kinh doanh cần cập nhật kịp thời quy định, kê khai – nộp thuế đúng đủ, để hưởng lợi từ sự minh bạch, thuận lợi của cơ chế chính sách; nhưng ngược lại, nếu người nộp thuế chậm thích ứng, không chấp hành nghiêm quy định pháp luật thì các rủi ro về thuế và chi phí phát sinh như phạt, chậm nộp thuế có thể rất lớn…”, Chủ tịch HĐTV Công ty DC, nhấn mạnh.

Tại hội thảo, các chuyên gia thuế, kế toán của DC đã lần lượt trình bày các nội dung liên quan đến các chính sách thuế mới tác động trực tiếp đến doanh nghiệp; ngành Thuế đang trong tiến trình tái cấu trúc, thay đổi hàng loạt cải cách phương thức quản lý thuế, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hướng đến số hóa quy trình nghiệp vụ; các rủi ro kế toán thuế các doanh nghiệp thường gặp; người nộp thuế cần phải làm gì để thích ứng cũng như các giải pháp phòng tránh…, nhằm gia tăng quản trị rủi ro thuế, tối ưu các chi phí thuế cho doanh nghiệp v.v…

Chuyên gia thuế Đầu Xuân Đức và chuyên gia kế toán Phạm Thị Huyền nhận hoa từ Ban Tổ chức Hội nghị.

Tại hội thảo, các chuyên gia thuế, kế toán của DC đã lần lượt trình bày các nội dung liên quan đến các chính sách thuế mới tác động trực tiếp đến doanh nghiệp; ngành Thuế đang trong tiến trình tái cấu trúc, thay đổi hàng loạt cải cách phương thức quản lý thuế, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hướng đến số hóa quy trình nghiệp vụ; các rủi ro kế toán thuế các doanh nghiệp thường gặp; người nộp thuế cần phải làm gì để thích ứng cũng như các giải pháp phòng tránh…, nhằm gia tăng quản trị rủi ro thuế, tối ưu các chi phí thuế cho doanh nghiệp v.v…

Cũng trong khuôn khổ Hội nghị “Cập nhật tổng quan chính sách thuế mới tác động trực tiếp đến doanh nghiệp và hành động của chúng ta”, các doanh nghiệp, hộ kinh doanh đã mạnh dạn nêu ra những khó khăn vướng mắc đang gặp phải, đã được các chuyên gia thuế, kế toán của DC lần lượt giải đáp từng vấn đề, góp phần làm cho không khí buổi tọa đàm, giao lưu thêm phần cởi mở, phấn khích và nhiều ý nghĩa.

Nhấn mạnh một lần nữa, chuyên gia thuế Đầu Xuân Đức, nêu quan điểm: “Ngành Thuế đã đổi mới, thì doanh nghiệp cũng cần phải tái cấu trúc để tồn tại, hội nhập và phát triển.

Đây không còn là việc doanh nghiệp “nên làm”, mà cần phải làm ngay như: Cập nhật chính sách thuế một cách hệ thống; Tăng cường ứng dụng công nghệ trong quản trị rủi ro thuế; Nâng cao năng lực quản trị và chuẩn hóa quy trình quản lý tài chính – kế toán; Xây dựng kế hoạch chiến lược quản trị thuế – tài chính phù hợp từng doanh nghiệp để không một ai bị bỏ lại phía sau”.

Anh Phạm

Một Youtuber nổi tiếng với hàng triệu lượt theo dõi vừa bị Công an Thanh Hóa khởi tố về hành vi trốn thuế hơn 120 triệu đồng.

Trong bối cảnh nền kinh tế số bùng nổ, sáng tạo nội dung trực tuyến trở thành ngành nghề mang lại thu nhập cao cho nhiều cá nhân. Tuy nhiên, không ít trường hợp đã tìm cách lách luật hoặc né tránh nghĩa vụ tài chính.

Vụ án Youtuber H.V.Đ. ở Thanh Hóa vừa khởi tố không chỉ dừng ở câu chuyện pháp lý cá nhân, mà còn phản ánh những thách thức lớn trong công tác thu thuế từ kinh tế số.

Trốn thuế trong thời đại số

Ngày 7/9, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa cho biết đã phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh khám xét đối với H.V.Đ. (SN 1987, ngụ xã Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa) về tội “Trốn thuế” theo quy định tại khoản 1, Điều 200 Bộ luật Hình sự.

Trước đó, ngày 4/9, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa đã ra quyết định khởi tố vụ án và khởi tố bị can.

Theo kết quả điều tra ban đầu, từ tháng 1/2021 đến 9/2022, H.V.Đ. cùng một số cộng sự sản xuất các video ngắn với mô tuýp quen thuộc như: “Chủ tịch giả nghèo và cái kết”, “Bị người yêu coi thường và cái kết”…

Các video này được đăng tải trên Youtube, thu hút lượng lớn người xem, từ đó mang lại doanh thu quảng cáo trực tiếp từ công ty chủ quản nền tảng.

-1399-1757480032.jpg
Hậu trường nhiều bộ phim triệu view ra đời. 

Với gần 2 triệu lượt đăng ký trên kênh Youtube chính, cùng nhiều kênh mạng xã hội khác cũng có hàng triệu lượt theo dõi, H.V.Đ. được xem là một trong những nhà sáng tạo nội dung có sức ảnh hưởng đáng kể. Doanh thu từ quảng cáo vì thế cũng không hề nhỏ, trở thành nguồn thu nhập chính.

Cơ quan điều tra xác định, ngoài một tài khoản ngân hàng Vietinbank đã kê khai nộp thuế, H.V.Đ. còn sử dụng nhiều tài khoản khác để nhận tiền quảng cáo.

Trong quá trình này, bị can đã dùng chứng từ và tài liệu không phản ánh đúng giá trị giao dịch thực tế, nhằm giảm số thuế phải nộp. Tổng số tiền trốn thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân được xác định lên tới hơn 120 triệu đồng.

-1256-1757480032.png
Tài khoản của H.V.Đ đã ở chế độ riêng tư. 

Vụ việc cho thấy sự nghiêm khắc của cơ quan chức năng trước các hành vi gian lận thuế, đặc biệt trong lĩnh vực mới nổi như sáng tạo nội dung số.

Sự bùng nổ của các nền tảng như Youtube, TikTok, Facebook tạo nên nguồn thu nhập lớn cho hàng nghìn cá nhân tại Việt Nam. Nhưng cùng với đó, công tác thu thuế từ các nguồn này lại đối diện không ít khó khăn do đặc thù dòng tiền và việc quản lý tài khoản cá nhân chưa chặt chẽ.

‘Mảnh đất’ tỷ đô và khoảng trống thuế ?

Theo thống kê của Google, Temasek và Bain & Company, nền kinh tế số Việt Nam năm 2024 đã đạt quy mô khoảng 30 tỷ USD, dự báo có thể tăng gấp đôi vào năm 2030. Trong đó, mảng sáng tạo nội dung trực tuyến chiếm tỷ trọng lớn khi Việt Nam thuộc nhóm thị trường có lượng người dùng mạng xã hội cao nhất khu vực.

Doanh thu từ các nền tảng xuyên biên giới đổ về Việt Nam lên đến hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm. Chỉ riêng Youtube, năm 2023, Việt Nam nằm trong top 5 thị trường lớn nhất châu Á về số lượng video được tải lên và lượt xem. Điều này đồng nghĩa, hàng loạt cá nhân, tổ chức trong nước đã và đang nhận được khoản thu nhập khổng lồ từ nền tảng này.

Tuy nhiên, công tác thu thuế gặp thách thức lớn. Dù Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế đã nhiều lần ban hành hướng dẫn, yêu cầu cá nhân có thu nhập từ Google, Facebook, TikTok… phải kê khai và nộp thuế, thực tế vẫn còn nhiều trường hợp cố tình né tránh. Một phần do thiếu hiểu biết pháp luật, nhưng phần khác là sự chủ động tìm cách che giấu dòng tiền.

Trường hợp H.V.Đ. ở Thanh Hóa chỉ là một ví dụ. Trước đó, cơ quan thuế từng công bố danh sách hàng trăm cá nhân có thu nhập từ quảng cáo trực tuyến nhưng chưa kê khai, với tổng số tiền trốn thuế hàng chục tỷ đồng. Đặc biệt, nhiều Youtuber và TikToker thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi tháng nhưng không đăng ký mã số thuế.

Về mặt kinh tế, việc trốn thuế không chỉ gây thất thu ngân sách Nhà nước mà còn tạo ra sự thiếu công bằng giữa các nhóm lao động. Người lao động truyền thống bị khấu trừ thuế đầy đủ, trong khi một số cá nhân trong lĩnh vực sáng tạo nội dung lại né tránh nghĩa vụ. Sự chênh lệch này có thể tạo ra tâm lý so sánh tiêu cực, ảnh hưởng đến niềm tin vào chính sách thuế.

Ở góc độ chính sách, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần sớm xây dựng cơ chế quản lý dòng tiền xuyên biên giới chặt chẽ hơn. Một giải pháp là hợp tác với các ngân hàng thương mại để kiểm soát thu nhập từ nền tảng quốc tế chảy về tài khoản cá nhân. Đồng thời, nên tăng cường phối hợp với Google, Meta, TikTok để đối chiếu dữ liệu doanh thu với kê khai của người dùng.

Ngoài ra, việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức cũng vô cùng quan trọng. Nhiều nhà sáng tạo nội dung trẻ coi việc nộp thuế là gánh nặng thay vì trách nhiệm công dân.

Cần nhấn mạnh rằng, đóng thuế không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà còn là cách họ góp phần xây dựng hạ tầng, dịch vụ công – chính những yếu tố gián tiếp tạo môi trường cho ngành sáng tạo số phát triển.

Cuối cùng, vụ việc Youtuber H.V.Đ. là lời nhắc nhở rõ ràng: thu nhập từ nền tảng số không còn là “vùng xám” ngoài tầm quản lý.

Khi kinh tế số ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, Nhà nước càng cần nhanh chóng hoàn thiện cơ chế quản lý thuế. Bởi nếu không, ngân sách sẽ tiếp tục thất thoát, trong khi một bộ phận cá nhân hưởng lợi lại không chia sẻ công bằng gánh nặng tài chính với xã hội.

Tiến Anh

Nguồn: vnbusiness.vn

Tại dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2020/NĐ-CP ngày 28/8/2020 của Chính phủ quy định về kinh doanh hàng miễn thuế, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi quy định về đối tượng và điều kiện mua hàng miễn thuế.

Bộ Tài chính cho biết, qua rà soát nhận thấy, khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Nghị định số 100/2020/NĐ-CP (Đối tượng và điều kiện mua hàng miễn thuế) đều quy định đối tượng là hành khách trên các chuyến bay quốc tế xuất cảnh từ Việt Nam.

Việc cùng một đối tượng nhưng được quy định tại hai khoản khác nhau dễ gây hiểu nhầm khi áp dụng. Do vậy, Bộ đề xuất bỏ đối tượng này tại khoản 1, giữ nguyên quy định của đối tượng này tại khoản 2 để đảm bảo tính mạch lạc, thống nhất, dễ tra cứu và tránh chồng chéo trong quy định pháp lý, không làm thay đổi đối tượng, điều kiện mua hàng miễn thuế.

Cũng theo Bộ Tài chính, hiện nay, quy định tại điểm a, điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 3 Nghị định 100/2020/NĐ-CP chỉ đề cập tới “cảng biển loại 1”. Trong khi đó tại khoản 1 Điều 75 Bộ luật Hàng hải Việt Nam có 02 khái niệm “cảng biển đặc biệt”, “Cảng biển loại I”, cụ thể:

(i) Cảng biển đặc biệt là cảng biển có quy mô lớn, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của cả nước hoặc liên vùng và có chức năng trung chuyển quốc tế hoặc là cảng cửa ngõ quốc tế;

(ii) Cảng biển loại I là cảng biển có quy mô lớn, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của cả nước hoặc liên vùng.

Do đó, để bảo đảm tính thống nhất với quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh hàng miễn thuế, tại dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 68/2016/NĐ-CP và Nghị định số 67/2020/NĐ-CP đã đề xuất bổ sung “cảng biển đặc biệt” vào vị trí được phép đặt cửa hàng miễn thuế.

Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi cụm từ “cửa khẩu cảng biển loại 1” tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều 3 Nghị định 100/2020/NĐ-CP thành “cửa khẩu cảng biển”. Việc thay đổi này phù hợp với dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 68/2016/NĐ-CP và Nghị định 67/2020/NĐ-CP.

Đối tượng và điều kiện mua hàng miễn thuế

Như vậy, đối tượng và điều kiện mua hàng miễn thuế được đề xuất như sau:

1. Người xuất cảnh, quá cảnh sau khi hoàn thành thủ tục xuất cảnh, quá cảnh, khách du lịch theo đoàn bằng đường biển hoặc người chờ xuất cảnh được mua hàng miễn thuế.

a) Người xuất cảnh, quá cảnh qua các cửa khẩu đường bộ quốc tế, cửa khẩu ga đường sắt liên vận quốc tế, cửa khẩu cảng biển, cửa khẩu cảng hàng không dân dụng quốc tế được mua hàng miễn thuế tại cửa hàng miễn thuế nằm trong khu vực cách ly;

b) Người chờ xuất cảnh được mua hàng miễn thuế tại cửa hàng miễn thuế trong nội địa. Hàng hóa miễn thuế được nhận tại quầy nhận hàng trong khu cách ly tại cửa khẩu quốc tế nơi hành khách xuất cảnh;

c) Khách du lịch là người nước ngoài theo đoàn bằng đường biển, có hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế được mua hàng miễn thuế tại cửa khẩu cảng biển, cửa hàng miễn thuế trong nội địa.

Trường hợp mua hàng miễn thuế trong nội địa thì khách du lịch được nhận hàng tại quầy nhận hàng trong khu cách ly tại cửa khẩu cảng biển nơi khách du lịch xuất cảnh;

d) Ngoài địa điểm nhận hàng quy định tại khoản này, khách mua hàng quy định tại điểm a, điểm b, điểm c khoản này được nhận hàng ở nước ngoài.

2. Hành khách trên các chuyến bay quốc tế xuất cảnh từ Việt Nam được mua hàng miễn thuế trên tàu bay xuất cảnh. Hành khách trên các chuyến bay quốc tế đến Việt Nam được mua hàng miễn thuế trên tàu bay đang thực hiện chuyến bay quốc tế đến Việt Nam.

3. Người nhập cảnh được mua hàng miễn thuế tại cửa hàng miễn thuế đặt tại khu vực hạn chế của cảng hàng không dân dụng quốc tế ngay sau khi hoàn thành thủ tục nhập cảnh, không được mua hàng miễn thuế sau khi đã ra khỏi khu vực hạn chế tại cảng hàng không dân dụng quốc tế.

4. Đối tượng được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ tại Việt Nam được mua hàng miễn thuế tại cửa hàng miễn thuế trong nội địa. Khi mua hàng miễn thuế cho tổ chức phải xuất trình sổ định mức hàng miễn thuế.

Khi mua hàng miễn thuế cho cá nhân phải xuất trình sổ định mức hàng miễn thuế kèm chứng minh thư do Bộ Ngoại giao cấp hoặc hộ chiếu.

5. Đối tượng mua hàng là thuyền viên làm việc trên tàu biển chạy tuyến quốc tế (bao gồm tàu biển có quốc tịch nước ngoài và tàu biển có quốc tịch Việt Nam chạy tuyến quốc tế) được mua hàng miễn thuế tại cảng biển loại 1, cửa hàng miễn thuế trong nội địa phục vụ cho nhu cầu cá nhân, nhu cầu sinh hoạt chung của thuyền viên để sử dụng trên tàu trong thời gian tàu neo đậu tại cảng biển Việt Nam và để sử dụng trên tàu ngoài lãnh hải Việt Nam sau khi tàu xuất cảnh.

a) Trường hợp mua hàng miễn thuế phục vụ nhu cầu cá nhân thuyền viên phải xuất trình hộ chiếu hoặc thẻ đi bờ của thuyền viên;

b) Trường hợp mua hàng miễn thuế phục vụ nhu cầu sinh hoạt chung của thuyền viên trong thời gian tàu neo đậu tại cảng biển Việt Nam, thuyền trưởng hoặc người đại diện tàu có đơn đặt hàng kèm theo danh sách thuyền viên có thông tin về số hộ chiếu của từng thuyền viên, trên đơn phải ghi rõ thông tin về số hiệu tàu, ngày tàu nhập cảnh;

c) Trường hợp hàng miễn thuế phục vụ nhu cầu của thuyền viên cho hành trình tiếp theo ngoài lãnh hải Việt Nam, thuyền trưởng hoặc người đại diện tàu có đơn đặt hàng, trên đơn đặt hàng phải ghi rõ thông tin về số hiệu tàu, ngày tàu nhập cảnh, kèm theo danh sách thuyền viên có thông tin số hộ chiếu của từng thuyền viên.

Hàng hóa phải được đưa vào kho chứa của tàu để cơ quan hải quan nơi tàu xuất cảnh niêm phong, xác nhận, giám sát cho đến khi tàu xuất cảnh.

6. Đối tượng mua hàng miễn thuế tại Khu thương mại tự do, Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam theo quy định của từng Khu thương mại tự do, Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam.

Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây

PV

Nguồn: sohuutritue.net.vn

Công ty TNHH POSCO VST (Hàn Quốc) vừa có đơn kiến nghị gửi đến Cục Hải quan, Bộ Tài chính… về việc xem xét lại các các quyết định xử phạt công ty về hành vi trốn thuế, khiến doanh nghiệp bị thiệt hại hơn 304 tỷ đồng.

POSCO VST khẳng định không “trốn thuế”

Tại buổi họp báo cung cấp thông tin báo chí mới đây, đại diện POSCO VST cho biết, vụ việc bắt đầu từ năm 2023 sau khi đoàn kiểm tra sau thông quan của Tổng cục Hải quan, nay là Cục Hải quan, Bộ Tài chính cho rằng, công ty này đã chuyển đổi hơn 28.000 tấn thép không gỉ nhập khẩu nhưng chưa kê khai chuyển đổi mục đích bán nội địa theo quy định của pháp luật và chưa nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT) cho lô nguyên liệu này.

POSCO VST khiếu nại quyết định xử phạt 304 tỷ đồng, khẳng định không “trốn thuế”. Ảnh: Posco Việt Nam.

Do đó, Tổng cục Hải quan đã ban hành Quyết định 2511 ngày 9/10/2023 và Quyết định số 77 ngày 20/1/2025, ấn định tổng số tiền thuế hơn 121 tỷ đồng đối với 28.000 tấn thép nói trên. Ngoài ra, Tổng cục Hải quan còn ban hành Quyết định 87 ngày 22/1/2025 xử phạt hành vi “trốn thuế” với số tiền hơn 117 tỷ đồng.

Trong đơn kiến nghị, POSCO VST cho biết đã giải trình và cung cấp các tài liệu chứng minh không có hành vi trốn thuế hoặc chiếm đoạt thuế của Nhà nước. Cụ thể, đối với hơn 28.000 tấn thép nguyên liệu, POSCO VST đã kê khai và nộp thuế đầy đủ cho Cục Thuế tỉnh Đồng Nai khi bán nội địa toàn bộ lô hàng.

Đồng thời, trước thời điểm Cục Hải quan ban hành quyết định ấn định thuế, POSCO VST đã tự kê khai chuyển đổi và nộp thuế GTGT đối với 29 tờ khai tại Chi cục Hải quan Nhơn Trạch, với tổng số tiền hơn 65 tỷ đồng. Tuy nhiên, Cục Hải quan vẫn ban hành quyết định ấn định thuế, truy thu lần nữa số tiền hơn 65 tỷ đồng đã được nộp. Như vậy, tổng số tiền POSCO VST bị thiệt hại trong vụ việc này lên tới 304 tỷ đồng.

Ông Bùi Quang Hưng, phụ trách pháp chế của POSCO VST cho biết: Tại Quyết định xử phạt 87, cơ quan Hải quan không đề cập POSCO VST “ trốn thuế”, thay vào đó xác định POSCO VST đã sử dụng 28.000 tấn thép không gỉ thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế không đúng mục đích mà không khai báo việc chuyển đổi với cơ quan hải quan trong thời gian từ 1/1/2020 – 17/8/2023 là vi phạm Điều 25, Nghị định 08/2015/NĐ-CP.

Tuy nhiên, cơ quan hải quan áp dụng chế tài xử phạt đối với hành vi trốn thuế quy định tại điểm g, khoản 1, Điều 14 Nghị định 128/2020/NĐ-CP.

Cụ thể, các hành vi trốn thuế bao gồm: Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế, hàng quản lý theo ngạch thuế quan không đúng mục đích mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan hải quan. Vì vậy, cơ quan Hải quan đã xử phạt POSCO VSST số tiền 1 lần hơn 117 tỷ đồng.

“Mặc dù trong Quyết định xử phạt 87 không đề cập tới việc POSCO có “trốn thuế” hay không, nhưng lực lượng hải quan áp dụng quy định xử phạt đối với hành vi trốn thuế. Chúng tôi cho rằng, Quyết định 87 nói trên không có cơ sở xác định POSCO VST có hành vi trốn thuế”, ông Hưng nói.

Đơn kêu cứu của Posco gửi tới các cơ quan chức năng.

Ông Hưng khẳng định: ‘Doanh nghiệp không có hành vi trốn thuế mà chấp hành nộp thuế đầy đủ. Doanh nghiệp chỉ chưa kê khai ngay việc chuyển đổi mục đích bán vào thị trường nội địa thay vì xuất khẩu đối với số lượng hàng hóa được sản xuất từ hơn 28.000 tấn thép nguyên liệu nhập khẩu’.

Cũng theo ông Hưng, POSCO VST là doanh nghiệp “luồng xanh”, tức doanh nghiệp được ưu tiên nên trong quá trình kê khai thuế, nếu có sai sót doanh nghiệp sẽ được phép kê khai lại.

Và việc chuyển đổi bán nội địa muộn so với thực tế hàng hoá nhưng phù hợp với quy định của pháp luật về quyền của Doanh nghiệp Ưu tiên được quy định tại Khoản 4 Điều 26 của Thông tư 72/2015/TT-BTC (được sửa đổi bổ sung của Thông tư 07/2019/TT-BTC) “Thực hiện việc tự kiểm tra, phát hiện, khắc phục sai sót, báo cáo cơ quan hải quan; duy trì các điều kiện doanh nghiệp ưu tiên”.

Hải quan khẳng định đúng quy định pháp luật

Liên quan tới khiếu nại của POSCO VST, tối 16/9, Cục Hải quan, Bộ Tài chính đã có thông cáo báo chí, lên tiếng về vụ việc này.

Cục Hải quan cho biết, Công ty TNHH POSCO VST là Doanh nghiệp FDI 95,65% vốn của Tập đoàn POSCO Hàn Quốc. Tại thời điểm kiểm tra, Công ty đã được công nhận là doanh nghiệp ưu tiên từ năm 2017, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất thép không gỉ cán nguội.

Công ty TNHH POSCO VST là Doanh nghiệp FDI 95,65% vốn của Tập đoàn POSCO Hàn Quốc.

Cục Hải quan cho biết khi kiểm tra sau thông quan, đoàn kiểm tra phát hiện từ ngày 1/1/2020 đến 17/8/2023, Posco VST tự ý tiêu thụ nội địa một lượng thép không gỉ cấu thành từ 28.277 tấn thép không gỉ cán nóng.

Số lượng hàng hóa này thuộc các tờ khai nhập khẩu để sản xuất, xuất khẩu mà không kê khai chuyển mục đích sử dụng. Cụ thể, công ty đã bán cho một số đối tác trong nước, xuất hóa đơn giá trị gia tăng đầu ra trong khoảng thời gian từ ngày 6/1/2020 đến ngày 21/7/2023.

“Hành vi sử dụng hàng hoá thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế không đúng mục đích sử dụng mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng của công ty đã vi phạm các quy định hiện hành”, Cục Hải quan nhấn mạnh.

Do đó, Cục Hải quan đã ấn định hơn 132 tỷ đồng tiền thuế và xử phạt hành chính hơn 117 tỷ đồng.

“Quá trình kiểm tra, xử lý, ấn định và xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan Hải quan đã thực hiện đúng quy định pháp luật có liên quan”, Cục Hải quan khẳng định.

Thông tin về việc giải quyết khiếu nại của POSCO VST, Cục Hải quan cho biết, ngày 25/8/2025 cơ quan này đã có phiếu hướng dẫn POSCO VST bổ sung thông tin, tài liệu.

Hiện nay, doanh nghiệp đang tiếp tục cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan để chứng minh số tiền thuế GTGT nộp thừa (nếu có) của 29 tờ khai. Cục Hải quan đã thụ lý vụ việc và đang tiến hành xử lý hồ sơ vụ việc theo quy định pháp luật.

Sau khi có kết quả xử lý khiếu nại lần hai, Cục Hải quan cho biết, sẽ tiếp tục thông tin.

Kỳ Thư

Nguồn: vietnamfinance.vn

Ngày 19/9/2025, Thuế TP Hồ Chí Minh vừa thông tin đến người nộp thuế về Quy định mới đối với trích lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ tại Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 67/2025/QH15, có hiệu lực thi hành từ 1/10/2025.

Nguồn: Thuế TP.HCM

Theo ước tính, với khoảng 8 triệu hồ sơ công chứng mỗi năm, việc áp dụng công chứng điện tử có thể giúp xã hội tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng chi phí lưu trữ và xử lý giấy tờ.

Vai trò của chữ ký số và dịch vụ tin cậy trong công chứng điện tử

Ngày 19/9/2025, tại Hà Nội, Trung tâm Chứng thực điện tử quốc gia (NEAC), Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Hiệp hội Công chứng viên Việt Nam tổ chức Hội thảo “Vai trò của chữ ký số và dịch vụ tin cậy với công chứng điện tử”.

Hội thảo là diễn đàn để các cơ quan quản lý, Hiệp hội Công chứng viên Việt Nam, đội ngũ công chứng viên trên cả nước và các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tin cậy cùng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, góp phần thúc đẩy ứng dụng chữ ký số và dịch vụ tin cậy trong hoạt động công chứng.

Đây là nền tảng quan trọng để công chứng điện tử được triển khai đồng bộ sau khi Luật Công chứng (sửa đổi) chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2025.

Vai trò của chữ ký số và dịch vụ tin cậy trong công chứng điện tử - Ảnh 2.
Bà Tô Thị Thu Hương, Giám đốc NEAC phát biểu khai mạc Hội thảo.

Phát biểu khai mạc, bà Tô Thị Thu Hương, Giám đốc NEAC nhận định: “Trong kỷ nguyên mà dữ liệu trở thành tài nguyên mới và giao dịch số trở nên phổ biến, việc đảm bảo niềm tin số là điều kiện tiên quyết.

Tại Việt Nam, chúng tôi xác định chữ ký số và các dịch vụ tin cậy không chỉ là công cụ kỹ thuật, mà là nền tảng để đảm bảo niềm tin trong các giao dịch điện tử, định hình kinh tế số, chính phủ số và xã hội số”.

Hội thảo diễn ra trong bối cảnh Nghị định 23/2025/NĐ-CP về chữ ký điện tử và dịch vụ tin cậy vừa được Chính phủ ban hành, thiết lập khung pháp lý toàn diện cho các dịch vụ tin cậy như (chữ ký số, chứng thực thông điệp dữ liệu, cấp dấu thời gian, dịch vụ gửi – nhận dữ liệu bảo đảm …). Đây là là cầu nối quan trọng, giúp văn bản công chứng điện tử có giá trị pháp lý ngang với văn bản giấy.

Vai trò của chữ ký số và dịch vụ tin cậy trong công chứng điện tử - Ảnh 3.
Bà Nguyễn Thị Thơ, Phó Chủ tịch điều hành Hiệp hội Công chứng viên Việt Nam phát biểu tại Hội thảo.

Tại Hội thảo, bà Nguyễn Thị Thơ, Phó Chủ tịch điều hành Hiệp hội Công chứng viên Việt Nam khẳng định sự phối hợp với NEAC là cần thiết để công chứng điện tử đi vào thực tiễn: “Hiệp hội sẽ đồng hành cùng NEAC trong việc tuyên truyền, đào tạo và hướng dẫn công chứng viên tiếp cận công nghệ mới, qua đó bảo đảm chất lượng dịch vụ và quyền lợi hợp pháp của người dân.”

Chữ ký số và dịch vụ tin cậy – nền tảng quan trọng của công chứng điện tử

Đại diện NEAC đã phân tích rõ các khái niệm về chữ ký số, dịch vụ tin cậy, khẳng định giá trị pháp lý cũng như vai trò của các dịch vụ này trong hoạt động công chứng điện tử,.

Theo Luật Giao dịch điện tử năm 2023, chữ ký số là chữ ký điện tử, được tạo ra bằng thuật toán khóa không đối xứng nhằm xác nhận chủ thể ký và thể hiện sự chấp thuận của chủ thể đó đối với nội dung đã ký.

Chữ ký số bảo đảm tính xác thực, tính toàn vẹn và tính chống chối bỏ. Vì vậy, Luật Giao dịch điện tử khẳng định chữ ký số có giá trị pháp lý tương đương với chữ ký tay trong các giao dịch truyền thống.

Đồng thời, Luật Công chứng năm 2024 cũng quy định rõ văn bản công chứng điện tử có hiệu lực kể từ thời điểm được ký bằng chữ ký số của công chứng viên và của tổ chức hành nghề công chứng.

Khi các giao dịch điện tử trở nên phổ biến, nhiều loại hình dịch vụ liên quan cũng được hình thành, trong đó có dịch vụ tin cậy.

Luật Giao dịch điện tử quy định 3 loại hình dịch vụ tin cậy gồm: Dịch vụ cấp dấu thời gian: là dịch vụ để gắn thông tin về thời gian vào thông điệp dữ liệu; Dịch vụ chứng thực thông điệp dữ liệu: gồm dịch vụ lưu trữ và xác nhận tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu; dịch vụ gửi, nhận thông điệp dữ liệu bảo đảm; Dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng: là dịch vụ chứng thực chữ ký số trong hoạt động công cộng.

Nghị định số 23/2025/NĐ-CP đã quy định chi tiết các điều kiện về nhân lực, kỹ thuật và tài chính… đối với doanh nghiệp muốn kinh doanh dịch vụ tin cậy.

Đối với lĩnh vực công chứng điện tử, dịch vụ tin cậy là một công cụ hữu hiệu, giúp công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ, từng bước chuyển đổi các giao dịch truyền thống từ môi trường thực sang môi trường số, nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng điện tử. Đó chính là lợi ích thiết thực của công chứng điện tử

Tại Hội thảo, các đại biểu thống nhất rằng việc triển khai công chứng điện tử cần đi theo lộ trình mở rộng, trong đó công nghệ sẽ được sử dụng để đơn giản hóa thủ tục hành chính.

Trước hết, công chứng điện tử giúp tiết kiệm thời gian và chi phí. Người dân có thể thực hiện công chứng một số loại văn bản trực tuyến ngay tại nhà, thay vì phải đi lại nhiều lần đến phòng công chứng.

Hồ sơ điện tử được xử lý nhanh chóng, văn bản công chứng có thể được cấp gần như ngay lập tức sau khi công chứng viên ký số.

Thứ hai, công chứng điện tử tăng tính an toàn và minh bạch. Mỗi văn bản công chứng điện tử đều kèm chữ ký số và dấu thời gian, có thể kiểm tra trực tuyến để xác định tính xác thực. Hồ sơ được lưu trữ dưới dạng điện tử, tránh nguy cơ mất mát, hư hỏng hoặc làm giả.

Thứ ba, công chứng điện tử liên thông với nhiều dịch vụ công và giao dịch điện tử khác. Văn bản công chứng điện tử có thể sử dụng trực tiếp trong thủ tục đăng ký kinh doanh, giao dịch bất động sản, ngân hàng… mà không cần phải nộp thêm bản giấy, giúp giảm trùng lặp và tạo thuận lợi tối đa cho người dân.

Theo ước tính, với khoảng 8 triệu hồ sơ công chứng mỗi năm, việc triển khai công chứng điện tử có thể tiết kiệm cho xã hội hàng trăm tỷ đồng chi phí lưu trữ và xử lý giấy tờ. 

Bên cạnh nội dung chính sách, các đại biểu còn được trực tiếp thảo luận, lắng nghe đại diện các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số (CA) công cộng trình bày giải pháp kỹ thuật, chia sẻ kinh nghiệm triển khai và hướng dẫn công chứng viên cách đăng ký, sử dụng chữ ký số, dịch vụ tin cậy trong lĩnh vực công chứng điện tử, giúp đội ngũ công chứng viên tiếp cận công nghệ áp dụng trong công việc hàng ngày.

Tại Hội thảo, các đại biểu thống nhất rằng việc triển khai công chứng điện tử cần được thực hiện theo lộ trình mở rộng, trong đó công nghệ đóng vai trò then chốt trong việv đơn giản hóa thủ tục hành chính.

Trước mắt, nhiều giao dịch đơn giản đã có thể thực hiện tiến hành trực tuyến với chữ ký số và dịch vụ tin cậy, giúp người dân tiết kiệm thời gian, giảm giấy tờ.

Trong giai đoạn tiếp theo, khi hạ tầng kỹ thuật, quy trình nghiệp vụ và kỹ năng số của công chứng viên được nâng cao, phạm vi áp dụng cũng sẽ được mở rộng đối với hợp đồng, giao dịch phức tạp hơn như bất động sản, thừa kế, thế chấp.

Cách tiếp cận này vừa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, vừa bảo đảm an toàn pháp lý và tăng cường tính minh bạch trong mọi giao dịch.

Bảo Ngọc

Nguồn: Trung tâm Truyền thông KH&CN

Việc Chính phủ đưa thu nhập từ hoạt động mua bán vàng vào diện chịu thuế thu nhập cá nhân theo Nghị quyết 278/NQ-CP đang thu hút nhiều sự quan tâm. 

Các chuyên gia cho rằng chính sách này có thể góp phần minh bạch thị trường, đảm bảo công bằng giữa các kênh đầu tư và tăng nguồn thu ngân sách, nhưng cũng đặt ra thách thức lớn trong quản lý, nhất là nguy cơ phát sinh giao dịch ngầm nếu cách tính thuế thiếu hợp lý.

Thách thức từ thực tiễn quản lý

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 278/NQ-CP sau phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 9/2025, trong đó thống nhất đưa thu nhập từ hoạt động mua bán vàng vào diện chịu thuế thu nhập cá nhân. Bộ Tài chính được giao phối hợp với Ngân hàng Nhà nước hoàn thiện nội dung này trong dự thảoLuật thuế thu nhập cá nhân (thay thế).

Mục tiêu của chính sách là nâng cao tính minh bạch, hạn chế đầu cơ vàng, song đề xuất cũng gây nhiều băn khoăn trong dư luận. Không ít người đặt câu hỏi: Nếu chỉ mua vàng “phòng thân” với số lượng nhỏ, hay bán vàng “hồi môn”, vàng được cho tặng, thì có phải chịu thuế hay không?

Đưa giao dịch vàng vào diện chịu thuế thu nhập cá nhân: Minh bạch thị trường hay lo ngại gánh nặng?

Chuyên gia kinh tế Lê Bá Chí Nhân cho rằng, đây là một đề xuất hợp lý. Khi chứng khoán và bất động sản đã chịu thuế, thì việc áp dụng thuế với vàng sẽ tránh tình trạng bất bình đẳng trong hệ thống thuế và đồng thời giúp tăng nguồn thu cho ngân sách.

Tuy nhiên, ông Nhân cũng lưu ý: Thị trường vàng hiện nay vẫn chủ yếu giao dịch bằng tiền mặt, thiếu hệ thống ghi nhận điện tử. Nếu không có cơ chế theo dõi, báo cáo minh bạch, thì việc thu thuế sẽ khó khả thi. Ngoài ra, nếu cách tính thuế phức tạp hoặc mức thuế cao, nguy cơ người dân sẽ tìm đến thị trường “chợ đen” để né thuế.

“Điểm mấu chốt là chỉ nên đánh thuế vào phần lãi ròng khi bán vàng, chứ không đánh vào vốn gốc. Người dân mua vàng để tích trữ không phát sinh thuế, chỉ khi bán ra có lợi nhuận thì mới chịu thuế, tương tự chứng khoán hoặc bất động sản”, ông Nhân nhấn mạnh.

Cần định danh rõ đối tượng chịu thuế

Ở góc nhìn khác, ông Nguyễn Văn Được, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Tư vấn Thuế Việt Nam (VTCA), cho rằng việc xác định giá mua vàng tích trữ từ nhiều năm trước là gần như bất khả thi, bởi thời điểm đó chưa có hệ thống hóa đơn, chứng từ đầy đủ.

Vì vậy, ông Được kiến nghị: không nên đánh thuế trên chênh lệch giá mua – bán, mà áp dụng mức thuế trực tiếp trên giá trị bán ra, khoảng 1,5% (trong đó 1% thuế giá trị gia tăng và 0,5% thuế thu nhập cá nhân).

Ông cũng đề xuất áp thuế giá trị gia tăng đối với vàng miếng, bởi hiện nay vàng trang sức, vàng mỹ nghệ vốn đã chịu nhiều loại thuế (VAT, thuế xuất khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp). Trong khi đó, vàng miếng vẫn nằm ngoài diện VAT, dù thực tế từ khi Nghị định 232 được ban hành, Nhà nước đã xóa bỏ độc quyền nhập khẩu vàng nguyên liệu và sản xuất vàng miếng.

Luật sư Nguyễn Văn Tuấn – Giám đốc Công ty Luật TGS, cho rằng một trong những vấn đề then chốt là phân loại đối tượng chịu thuế. Theo ông, cần làm rõ sự khác biệt giữa “cá nhân kinh doanh vàng miếng” với người chỉ mua vàng để tích trữ lâu dài.

“Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm quốc tế, đặt ngưỡng tối thiểu hoặc đánh thuế dựa trên lợi nhuận thực tế. Cách làm này vừa giúp kiểm soát hoạt động đầu cơ, vừa đảm bảo công bằng cho những người tích lũy vàng hợp pháp”, ông Tuấn phân tích.

Chính sách thuế đối với vàng, nếu triển khai, sẽ góp phần tăng tính minh bạch và chống đầu cơ. Nhưng thách thức đặt ra là làm sao thiết kế mức thuế hợp lý, quy định rõ đối tượng áp dụng, đồng thời xây dựng cơ chế quản lý hiện đại, dữ liệu minh bạch để tránh phát sinh thị trường ngầm.

Nói cách khác, việc đánh thuế vào vàng không chỉ là câu chuyện thu ngân sách, mà còn là phép thử cho năng lực quản lý thị trường và niềm tin của người dân vào chính sách.

Kỳ Thư

Nguồn: vietnamfinance.vn