Chương trình đào tạo chuyên sâu do Công ty Cổ phần Đào tạo & Tư vấn Thuế Việt Nam (VTAX) tổ chức đã diễn ra ngày 31/5/2025, tại TP.HCM.

Dưới sự hướng dẫn trực tiếp từ Chuyên gia thuế Nguyễn Hữu Tuyền, chương trình đã: Cập nhật đầy đủ các quy định, chính sách thuế mới năm 2025; Hướng dẫn chi tiết cách kê khai – nộp thuế – sử dụng biểu mẫu.

Đặc biệt, chuyên gia thuế đã phân tích – giải đáp trực tiếp hơn 50 tình huống thực tế do chính các học viên đặt ra trong quá trình hoạt động kinh doanh.

Đây không chỉ là một khóa học lý thuyết, mà là diễn đàn thực hành và tư vấn chuyên sâu – nơi các học viên có thể đối thoại trực tiếp cùng chuyên gia để tháo gỡ những vướng mắc cụ thể, bám sát với nghiệp vụ thuế thực chiến hàng ngày.

VTAX cam kết đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp, hộ kinh doanh và cá nhân trong hành trình nâng cao năng lực tài chính – thuế, hướng đến sự tuân thủ đúng luật – tối ưu chi phí – phát triển bền vững.

Nguồn: Công ty Cổ phần Đào tạo & Tư vấn Thuế Việt Nam – VTAX

Bên cạnh những trường hợp thuận lợi, không ít hộ kinh doanh đang gặp khó khăn trong quá trình triển khai hóa đơn điện tử. Một trong những rào cản lớn nhất là sự thiếu hụt kiến thức về công nghệ và kỹ năng kê khai thuế.

Bên cạnh đó, nhiều hộ kinh doanh chưa quen với việc sử dụng máy tính tiền để xuất hóa đơn điện tử hoặc không có thói quen lưu trữ hóa đơn đầu vào khi mua hàng. Điều này khiến họ gặp khó khăn trong việc cân đối giữa hóa đơn đầu ra và đầu vào – một yếu tố quan trọng trong quá trình nộp thuế chính xác.

Gấp rút hỗ trợ hộ kinh doanh triển khai hóa đơn điện tử- Ảnh 1.
Ông Nguyễn Đức Nghĩa, Phó Giám đốc Trung tâm dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp (DN) nhỏ và vừa HUBA – Ảnh: VGP/LA

Cần thêm lộ trình hướng dẫn và hỗ trợ hộ kinh doanh

Trao đổi với phóng viên Báo điện tử Chính phủ về việc hỗ trợ hộ kinh doanh triển khai hóa đơn điện tử, ông Nguyễn Đức Nghĩa, nguyên Chủ nhiệm Câu lạc bộ Đại lý thuế TPHCM, hiện là Phó Giám đốc Trung tâm dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp (DN) nhỏ và vừa (thuộc Hiệp hội DN TPHCM), cho biết qua quá trình tiếp xúc với nhiều hộ kinh doanh, ông nhận thấy việc triển khai hóa đơn điện tử hiện vẫn còn gặp nhiều vướng mắc, đặc biệt với các hộ nhỏ lẻ. Trong đó, những vướng mắc chủ yếu đến từ hạn chế về công nghệ, năng lực quản trị, nghiệp vụ kế toán cũng như kỹ năng sử dụng phần mềm của các hộ kinh doanh.

Thêm vào đó, hiện nay, nhiều hộ kinh doanh còn lo ngại việc sử dụng sai hóa đơn sẽ bị chế tài nặng, cụ thể như việc kê khai hóa đơn đầu vào. Nhiều hộ kinh doanh không có hóa đơn bởi trước đây mua hàng từ các nguồn không có hóa đơn hoặc hàng hóa trôi nổi trên thị trường nên nay không thể chứng minh được nguồn gốc, xuất xứ để kê khai đúng quy định.

Như vậy, theo ông Nghĩa, các hộ kinh doanh đang lo ngại vấn đề pháp lý với hàng hóa tồn kho trước đó. Trong khi đó, mô hình hộ kinh doanh từ lâu vốn vận hành chưa thực sự minh bạch, do đó rất cần một lộ trình triển khai rõ ràng, linh hoạt và phù hợp với thực tiễn, nhằm tạo điều kiện cho các hộ từng bước chuyển sang phương thức quản lý chặt chẽ hơn bằng hóa đơn điện tử.

Ông Nghĩa cũng đề xuất cơ quan thuế nên cân nhắc, điều chỉnh quy định về thời điểm xuất hóa đơn cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của hộ kinh doanh. Theo ông, thay vì bắt buộc phải xuất hóa đơn ngay tại thời điểm thu tiền hoặc bán hàng, có thể cho phép hộ kinh doanh chốt và xuất hóa đơn trong vòng 3 ngày tiếp theo. Việc linh hoạt về thời điểm xuất hóa đơn không ảnh hưởng đến số thu ngân sách, nhưng sẽ giúp giảm áp lực cho hộ kinh doanh.

Ông Nghĩa cho rằng, quy định hiện hành xử phạt từ 3–5 triệu đồng đối với hành vi xuất hóa đơn sai thời điểm có thể khiến nhiều hộ e ngại, dẫn đến tâm lý né tránh việc sử dụng hóa đơn điện tử.

Vì vậy, đối với các hộ kinh doanh cá thể, thay vì siết chặt ngay, cần ưu tiên “giáo dục trước, chế tài sau” thông qua truyền thông, hướng dẫn và hỗ trợ kỹ thuật. Đồng thời, cần xây dựng hệ thống hóa đơn điện tử đồng bộ, kết nối với dịch vụ vận chuyển và thanh toán, tạo nền tảng cho chuyển đổi số toàn diện trong lĩnh vực hộ kinh doanh cá thể.

Điều cấp thiết hiện nay, theo ông Nghĩa, là cần có chính sách hỗ trợ cụ thể cho hộ kinh doanh. Nhà nước và các đơn vị đồng hành, có thể là công ty thuế, đại lý thuế hoặc cơ quan thuế nên cung cấp phần mềm hóa đơn miễn phí hoặc ưu đãi, hỗ trợ vay vốn để đầu tư công nghệ, giúp hộ kinh doanh thực hiện nghĩa vụ thuế thuận lợi và phát triển kinh doanh chính đáng.

Gấp rút hỗ trợ hộ kinh doanh triển khai hóa đơn điện tử- Ảnh 2.
Công ty cổ phần Tư vấn Thuế Savitax đang phối hợp với cơ quan thuế và các đơn vị cung cấp giải pháp kỹ thuật tổ chức các buổi hướng dẫn “cầm tay chỉ việc” cho hộ kinh doanh – Ảnh: VGP/Lê Anh

Cơ quan thuế, đại lý thuế và các đơn vị phần mềm đang tích cực hỗ trợ hộ kinh doanh

Theo Chi cục Thuế khu vực II, hiện TPHCM có khoảng 200.000 hộ kinh doanh, trong đó 13.000 hộ có doanh thu trên 1 tỷ đồng/năm thuộc 6 ngành nghề quy định tại Nghị định 70/2025/NĐ-CP của Chính phủ. Những hộ này sẽ bắt buộc phải chuyển sang sử dụng hóa đơn điện tử từ ngày 1/6/2025, thay vì tiếp tục áp dụng hình thức nộp thuế khoán như trước.

Lãnh đạo Chi cục Thuế khu vực II cho rằng, Nghị định 70/2025/NĐ-CP là bước tiến lớn trong việc hiện đại hóa ngành thuế, đặc biệt là với việc mở rộng áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền. Đây sẽ là chìa khóa để quản lý thuế hiệu quả và tạo thuận lợi cho người nộp thuế.

Đồng thời, việc áp dụng hóa đơn điện tử sẽ giúp ngành thuế xác định chính xác doanh thu, từ đó tính đúng mức thuế phải nộp, góp phần bảo đảm nguồn thu ngân sách. Đây cũng là một phần trong lộ trình thực hiện Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân, với mục tiêu xóa bỏ thuế khoán vào năm 2026.

Trước đó, vào cuối tháng 4/2025, Chi cục Thuế khu vực II (TPHCM) tổ chức hội nghị triển khai Nghị định 70/2025/NĐ-CP và ký kết thỏa thuận triển khai hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền với các đơn vị để có thể triển khai, tuyên truyền đến từng hộ kinh doanh.

Hiện nay, các đội thuế trên địa bàn quận, huyện đang tăng cường tổ chức các buổi tập huấn, phối hợp với các doanh nghiệp cung cấp giải pháp hóa đơn điện tử để triển khai gói hỗ trợ cho hộ kinh doanh nhỏ lẻ.

Bà Đinh Thị Huyền, Giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn Thuế Savitax, cho biết hiện nay đơn vị đang phối hợp với cơ quan thuế và các nhà cung cấp giải pháp kỹ thuật để tổ chức các buổi hướng dẫn “cầm tay chỉ việc” dành cho hộ kinh doanh. Nội dung hướng dẫn bao gồm toàn bộ quy trình, từ thao tác kê khai thuế đến cách sử dụng máy tính tiền và phần mềm hóa đơn điện tử.

Bên cạnh đó, Savitax cũng phối hợp tổ chức các buổi tư vấn trực tuyến và hội thảo chuyên đề với chủ đề: “Quy định về chế độ hóa đơn điện tử đối với hộ và cá nhân kinh doanh theo Nghị định 70/2025/NĐ-CP”. Các chương trình này đã thu hút sự tham gia của hàng nghìn hộ kinh doanh, góp phần giúp họ nắm bắt quy định mới và áp dụng vào thực tiễn một cách hiệu quả.

Gấp rút hỗ trợ hộ kinh doanh triển khai hóa đơn điện tử- Ảnh 3.
Ông Đặng Vĩnh Hà, Giám Đốc Công ty TNHH hóa đơn điện tử M-invoice chi nhánh TPHCM đề xuất Bộ Tài chính thử nghiệm hỗ trợ một phần chi phí cho hộ kinh doanh chuyển đổi trong 2025 – Ảnh: VGP/Lê Anh

Tương tự, ông Đặng Vĩnh Hà, Giám Đốc Công ty TNHH hóa đơn điện tử M-invoice chi nhánh TPHCM cho biết, công ty đã chủ động phân bổ nguồn lực phối hợp cùng cơ quan thuế tại địa phương để thực hiện công tác tuyên truyền, giải đáp và tư vấn trực tiếp cho hộ kinh doanh một cách tận tình. Thời điểm đầu triển khai, nhiều hộ còn tâm lý e ngại do lo lắng về tính pháp lý và sự phức tạp trong thao tác. Tuy nhiên, sau khi được phổ biến chính sách, hướng dẫn cụ thể về pháp luật thuế và giải pháp xuất hóa đơn điện tử, các hộ kinh doanh đã dần hiểu, đồng thuận và chủ động tham gia triển khai.

Ông Đặng Vĩnh Hà cũng đề xuất Bộ Tài chính xem xét triển khai thử nghiệm chính sách hỗ trợ một phần chi phí cho hộ kinh doanh trong quá trình chuyển đổi sang sử dụng hóa đơn điện tử trong năm 2025. Đồng thời, ông nhấn mạnh cần đơn giản hóa các thủ tục hành chính để các hộ kinh doanh có thể dễ dàng tiếp cận và thụ hưởng các gói hỗ trợ.

Hiện nay, theo ghi nhận, các đại lý thuế và công ty tư vấn thuế trên địa bàn TP.HCM đang tích cực phối hợp với các đơn vị cung cấp giải pháp kỹ thuật để triển khai nhiều gói giải pháp trọn bộ về hóa đơn điện tử, dành riêng cho hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh. Các gói giải pháp này bao gồm phần mềm hóa đơn, chữ ký số, phần mềm kế toán, phần mềm xử lý hóa đơn và các công cụ hỗ trợ khác, đáp ứng yêu cầu theo Nghị định số 70/2025/NĐ-CP.

Đáng chú ý, nhằm khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi, nhiều đơn vị cung cấp đang miễn phí phần mềm kế toán và phần mềm xử lý hóa đơn trong thời gian từ 6 tháng đến 1 năm, tùy theo từng gói dịch vụ cụ thể.

Gấp rút hỗ trợ hộ kinh doanh triển khai hóa đơn điện tử- Ảnh 4.
Ông Nguyễn Văn Thể, Giám đốc chi nhánh miền Nam công ty CP VACOM (giữa) xuống tận hộ kinh doanh hỗ trợ kết nối hóa đơn điện tử – Ảnh: VGP/Lê Anh

Đối với vấn đề hàng tồn kho, vốn là nỗi lo chung của nhiều hộ kinh doanh lâu năm, các đại lý tư vấn thuế đề xuất cơ quan thuế cần có lộ trình và giải pháp hài hòa với số hàng tồn kho hiện tại để hộ kinh doanh có thể yên tâm xuất hóa đơn khi bán hàng. Theo đó, các hộ kinh doanh có thể kê khai, phân loại hàng hóa đầu vào (nếu không có hóa đơn) để làm căn cứ tính. Đồng thời, các đại lý thuế cũng khuyến nghị các hộ kinh doanh cần lấy hóa đơn đầu vào khi mua hàng để cân đối với hóa đơn đầu ra.

Lê Anh

Nguồn: Cổng thông tin điện tử Chính phủ

Nhận định “Việt Nam đang áp mức thuế quan lên tới 90% đối với hàng hóa của Hoa Kỳ” là một trong những lý do để chính quyền Hoa Kỳ quyết định áp thuế 46% đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một tuyên bố đáng lưu ý, không chỉ vì tác động thương mại mà còn bởi ý nghĩa chính trị-pháp lý mà nó kéo theo.

05/04/2025  06:29

Có thật Việt Nam đang áp thuế quan 90% với hàng hóa Hoa Kỳ?- Ảnh 1.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng.

Là một người gần 20 năm phụ trách hoạt động nghiên cứu pháp lý cho Quốc hội, tôi cho rằng cần thiết phải thẩm định lại lập luận trên một cách độc lập và khách quan. Trước hết, câu hỏi đặt ra là: con số 90% này đến từ đâu, và nó có cơ sở thực chứng hay không?

Dữ liệu chính thức cho thấy không có mức thuế quan nào đạt tới 90%.

Theo Báo cáo về Rào cản Thương mại nước ngoài năm 2024 của Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) – nguồn tài liệu chính thức do chính phía Hoa Kỳ công bố – thì: Mức thuế MFN (tối huệ quốc) trung bình của Việt Nam là 9,4%; đối với hàng nông nghiệp là 17,1%; đối với hàng phi nông nghiệp là 8,1%.

Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ năm 2007 và đã ràng buộc toàn bộ các dòng thuế trong biểu cam kết. Từ góc nhìn này, khó có thể tìm thấy dòng thuế nào chạm đến ngưỡng 90%.

“90%” dường như là một phép cộng mang tính hình ảnh hơn là con số pháp lý.

Con số 90% – nếu có ý nghĩa thực tế – dường như được hình thành bằng cách cộng gộp nhiều khoản thuế và chi phí mà một số loại hàng hóa nhập khẩu đặc biệt (như rượu, thực phẩm cao cấp…) phải gánh chịu bao gồm Thuế nhập khẩu (MFN); Thuế tiêu thụ đặc biệt (tính theo giá bán, thường cao hơn giá nhập khẩu); Thuế giá trị gia tăng (VAT) và một số chi phí hành chính liên quan đến kiểm định chất lượng, đăng ký lưu hành, thủ tục hải quan…

Tuy nhiên, từ góc nhìn luật thương mại quốc tế, chỉ thuế nhập khẩu trực tiếp mới được xem là “thuế quan” theo định nghĩa trong WTO và các hiệp định thương mại tự do. Các loại thuế nội địa và chi phí hành chính chỉ được coi là rào cản phi thuế quan và phải được đánh giá trong bối cảnh cụ thể.

Hơn nữa, những khoản thuế gián thu như VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt được áp dụng đồng đều cho cả hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước, vì vậy không thể được xem là hành vi bảo hộ hay phân biệt đối xử thương mại.

Ngoài ra, phương pháp gộp cộng các loại thuế và chi phí thành một chỉ số duy nhất như “thuế 90%” không phản ánh đúng cách đo lường mức độ bảo hộ theo các tiêu chuẩn quốc tế. Trong kinh tế học thương mại, người ta sử dụng các khái niệm như mức bảo hộ danh nghĩa (nominal protection rate) và mức bảo hộ hiệu dụng (effective protection rate), nhưng hai khái niệm này cũng được tính toán theo phương pháp thống nhất, có cơ sở lý thuyết rõ ràng, chứ không phải là phép cộng tùy nghi giữa các loại thuế và chi phí.

Do đó, việc sử dụng con số “90%” như một mức thuế quan là không chuẩn xác về mặt khái niệm, không hợp lệ về mặt pháp lý và thiếu thuyết phục về mặt học thuật.

Có thật Việt Nam đang áp thuế quan 90% với hàng hóa Hoa Kỳ?- Ảnh 2.
Việc sử dụng con số “90%” như một mức thuế quan là không chuẩn xác về mặt khái niệm, không hợp lệ về mặt pháp lý và thiếu thuyết phục về mặt học thuật.

Những khác biệt về hệ thống thuế không đồng nghĩa với phân biệt đối xử.

Mỗi quốc gia có một hệ thống thuế gián thu được thiết kế dựa trên cấu trúc kinh tế, mục tiêu chính sách và năng lực quản lý của riêng mình. Tại nhiều quốc gia đang phát triển, thuế tiêu thụ đặc biệt thường được áp dụng để điều tiết hành vi tiêu dùng đối với các mặt hàng như rượu, bia, thuốc lá, nước ngọt có đường… Đây là chính sách nhằm mục tiêu bảo vệ sức khỏe cộng đồng, chứ không phải nhằm phân biệt đối xử với hàng nhập khẩu.

Ngay cả khi trong thực tế các mặt hàng nhập khẩu phải chịu gánh nặng thuế tổng thể cao hơn so với sản phẩm trong nước – do phương pháp tính thuế, chi phí tuân thủ hoặc định giá khác biệt – thì điều đó không mặc nhiên đồng nghĩa với sự vi phạm nghĩa vụ thương mại quốc tế, miễn là:

1. Các quy định được áp dụng thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước;

2. Không có hành vi đối xử khác biệt theo xuất xứ;

3. Quy trình ban hành, thực thi các chính sách là minh bạch và có thể dự đoán.

Trong luật thương mại quốc tế, yếu tố then chốt không phải là kết quả thuần túy về gánh nặng thuế, mà là quy trình và nguyên tắc áp dụng. Chính vì vậy, sự khác biệt về tổng gánh nặng thuế giữa hàng hóa Hoa Kỳ và hàng hóa nội địa Việt Nam (nếu có), cần được phân tích kỹ lưỡng và so sánh một cách hệ thống, chứ không thể lấy một số ít ví dụ đơn lẻ làm đại diện cho chính sách chung.

Hơn nữa, trong thực tiễn thương mại quốc tế, một số mặt hàng nhạy cảm như nông sản, thép, dệt may… thường bị áp mức thuế cao ở nhiều quốc gia, bao gồm cả các nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, những mức thuế này không mặc nhiên bị xem là hành vi phân biệt đối xử, nếu được áp dụng theo biểu thuế công khai, không phân biệt đối tác thương mại và tuân thủ nguyên tắc MFN trong WTO.

Vì vậy, để xác lập hành vi phân biệt, không thể chỉ dựa trên mức thuế cao mà cần chứng minh sự thiên lệch trong đối xử với hàng hóa của một quốc gia cụ thể, điều mà trong trường hợp của Việt Nam, cho đến nay chưa có bằng chứng rõ ràng.

Áp thuế trả đũa dựa trên con số không rõ ràng: rủi ro về pháp lý và tiền lệ.

Việc chính quyền Hoa Kỳ sử dụng con số “90%” như một lý lẽ trung tâm để áp thuế 46% đối với hàng hóa từ Việt Nam đặt ra một câu hỏi lớn: Liệu đó có phải là cách tiếp cận phù hợp với tinh thần pháp lý quốc tế và các nguyên tắc của WTO?

Nếu xu hướng định lượng một cách cảm tính như vậy trở nên phổ biến, hệ thống thương mại đa phương có nguy cơ mất đi sự ổn định. Bất kỳ quốc gia nào cũng có thể biện minh cho hành động đơn phương của mình bằng các lập luận không được thẩm định độc lập hoặc không phản ánh đúng bản chất pháp lý của sự việc.

Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ cần nhiều hơn sự chính xác và đối thoại.

Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt đến cấp độ Đối tác chiến lược toàn diện. Trong bối cảnh đó, cách tiếp cận dựa trên dữ liệu đáng tin cậy, đánh giá khách quan và tinh thần đối thoại là nền tảng để xử lý khác biệt, thay vì sử dụng những lập luận mang tính biểu tượng hay cảm xúc.

Cuối cùng, việc khẳng định Việt Nam đang áp thuế quan 90% đối với hàng hóa Hoa Kỳ – nếu không có minh chứng cụ thể và hợp pháp – là một cách diễn giải thiếu chính xác. Tôi cho rằng những khác biệt thương mại – dù có – vẫn hoàn toàn có thể giải quyết thông qua các cơ chế hợp tác hiện có, với sự tôn trọng lẫn nhau và cam kết cùng hướng tới một trật tự thương mại ổn định, công bằng và dựa trên luật lệ.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng

Nguồn: www.chinhphu.vn

Đó là ý kiến chỉ đạo của Phó Cục trưởng Cục Thuế Lê Long tại buổi làm việc với Chi cục Thuế khu vực XV (CCTKV XV) về tình hình triển khai, vận hành theo mô hình tổ chức mới.

Tham dự buổi làm việc có đại diện lãnh đạo các Ban, đơn vị trực thuộc Cục Thuế, đại diện các phòng, đội thuế thuộc CCTKV XV.

Phó Cục trưởng Cục Thuế Lê Long phát biểu chỉ đạo

Báo cáo đoàn làm việc, Chi cục trưởng CCTKV XV Đoàn Minh Dũng cho biết, đơn vị được hợp nhất từ 04 cơ quan thuế Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Thuận và Ninh Thuận, tổng cộng có 1.942 công chức và người lao động. Số lượng người nộp thuế (NNT) đang quản lý là 5.865.399 NNT.

Dự toán thu NSNN năm 2025 được giao cho CCTKV XV là 124.769,6 tỷ đồng (trong đó: Bà Rịa – Vũng Tàu: 71.270 tỷ đồng, Đồng Nai: 40.080 tỷ đồng, Bình Thuận:  9.159,6 tỷ đồng, Ninh Thuận: 4.260 tỷ đồng).

Sau khi sắp xếp, sáp nhập, tập thể lãnh đạo CCTKV XV luôn bám sát chỉ đạo của Cục Thuế và Cấp ủy chính quyền các địa phương để triển khai nhiệm vụ trên các địa bàn. Đồng thời Chi cục Thuế đã thực hiện chỉ đạo và quán triệt cán bộ, công chức an tâm công tác, quyết tâm phấn đấu thực hiện nhiệm vụ được giao. Đảm bảo giải quyết thủ tục hành chính thuế cho người dân và doanh nghiệp (DN) được thông suốt, không bị gián đoạn.

Kết quả thu ngân sách nhà nước (NSNN) tháng 2/2025 được 12.488,9 tỷ đồng, lũy kế 02 tháng đầu năm 2025 thu được 28.957,3 tỷ đồng, đạt 23,2% dự toán pháp lệnh và tăng 21% so với cùng kỳ 2024.

Phát biểu chỉ đạo, Phó Cục trưởng Lê Long biểu dương và đánh giá cao sự nỗ lực, quyết tâm của CCTKV XV trong việc tổ chức sắp xếp, tinh gọn bộ máy và đưa bộ máy mới đi vào vận hành, hiệu lực, hiệu quả theo đúng tinh thần Nghị quyết 18-NQ/TW của Trung ương.

Chi cục trưởng CCTKV XV Đoàn Minh Dũng tiếp thu ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Cục Thuế

Phó Cục trưởng cũng đánh giá cao những nỗ lực trong công tác thu NSNN của CCTKV XV trên địa bàn 4 tỉnh bao gồm: Bà Rịa – Vũng Tàu; Đồng Nai, Bình Thuận và Ninh Thuận trong 2 tháng qua, trong bối cảnh rất nhiều việc phải làm nhưng Chi cục đã đảm bảo thu NSNN trên địa bàn đạt cao, vượt 21% so với cùng kỳ năm 2024.

Phó Cục trưởng Lê Long lưu ý, nhiệm vụ trong thời gian tới còn rất nặng nề, vì vậy đơn vị cần tiếp tục nâng cao trách nhiệm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, động viên tinh thần công chức, người lao động trong Chi cục. Đồng thời tập trung triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Thứ nhất, tiếp tục tổ chức, sắp xếp ổn định nhân sự, sắp xếp nơi làm việc đảm bảo hiệu quả, khai thác tối đa cơ sở vật chất, trang thiết bị đã có để nhanh chóng đưa cơ quan đi vào vận hành hiệu quả, thông suốt.

Thứ hai, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong thực thi công vụ. Thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra nội bộ, đánh giá kết quả công việc gắn với trách nhiệm cá nhân, khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, thiếu tinh thần phục vụ.

Quang cảnh buổi làm việc

Thứ ba, quyết liệt thực hiện thu NSNN đảm bảo đúng tiến độ, nhiệm vụ thu cả năm 2025. Chống thất thu, chống chuyển giá, trốn thuế. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng địa phương trong việc chia sẻ thông tin, dữ liệu liên quan đến NNT, quản lý hộ kinh doanh, giám sát hoạt động các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro về thuế như kinh doanh thương mại điện tử, lĩnh vực nhà hàng ăn uống, bán lẻ hàng hoá, dịch vụ, …

Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh nhiệm vụ chuyển đổi số, tận dụng trí tuệ nhân tạo (AI), xây dựng CSDL lớn tập trung để quản lý thuế, tự động hóa tất cả các khâu quy trình nghiệp vụ.

Thứ năm, tiếp tục cải cách một cách quyết liệt, hướng tới tối giản hóa thủ tục, giảm bớt gánh nặng cho NNT, nâng cao mức độ hài lòng của người dân và DN, theo đúng tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Thứ sáu, tăng cường quản lý đối với các DN kinh doanh xăng dầu trên địa bàn, thực hiện nghiêm việc xuất hóa đơn cho từng lần bán hàng.

Thứ bảy, lấy NNT là trung tâm để phục vụ, tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT để đảm bảo hỗ trợ tối đa cho NNT thực hiện tốt nghĩa vụ thuế.

Phó Cục trưởng Lê Long đã trực tiếp khảo sát hoạt động của các phòng tại Chi cục Thuế khu vực

Trong thời gian làm việc, Phó Cục trưởng Lê Long đã trực tiếp khảo sát hoạt động của các phòng tại Chi cục Thuế. Đồng thời trực tiếp khảo sát bộ phận một cửa tại Đồng Nai (nơi không đóng trụ sở chính) và bộ phận một cửa Đội thuế liên huyện Biên Hoà – Vĩnh Cửu để thăm hỏi, nắm bắt điều kiện làm việc, đồng thời trực tiếp trả lời các vướng mắc trong triển khai vận hành tổ chức bộ máy.

Thu Thủy

Nguồn: https://www.gdt.gov.vn

Ths Nguyễn Văn Tâm, Giảng viên khoa Tài chính – Học viện Ngân hàng, chuyên gia hoạch định tài chính cá nhân FIDT, nhận định, việc hiểu và nắm rõ các văn bản pháp luật về thuế sẽ giúp từng cá nhân tránh được các rủi ro về thuế, đồng thời tối ưu các quyết định trong quản lý tài chính cá nhân.

Mất tiền “oan” vì thiếu hiểu biết

Bà Lê Mai Xuân (37 tuổi, kinh doanh tự do), sinh sống tại quận Tân Phú, TP. HCM mới đây đã chia sẻ với Tạp chí Đầu tư Tài chính về vướng mắc trong câu chuyện nhận di sản thừa kế và đóng thuế thu nhập cá nhân (TNCN) của mình. Bà Xuân cho hay, sau khi chồng qua đời vì bạo bệnh, bà và hai con thừa kế khối tài sản trị giá khoảng 10 tỷ đồng dưới dạng cổ phần doanh nghiệp (ba mẹ chồng đã mất).

Tuy nhiên, do thiếu hiểu biết về Luật Thuế thu nhập cá nhân, bà phải đóng thuế 10% (tương đương 1 tỷ đồng). Trong khi đó, nếu hợp lý hơn, biết cách chuyển nhượng cổ phần trước khi chồng mất, số thuế phải đóng chỉ là 0,1% (khoảng 10 triệu đồng) theo quy định của pháp luật.

Ông Nguyễn Quốc Huy, sống tại huyện Nhà Bè, TP. HCM cũng chia sẻ về hoàn cảnh thậm chí còn éo le hơn. Cụ thể, do chưa nắm đầy đủ về đối tượng chịu thuế và thu nhập chịu thuế nên ông đã ký hợp đồng dịch vụ với một công ty để trả tiền thay cho các KOL, KOC và ông Huy được hưởng phí dịch vụ trên tổng số tiền đó.

Ông Huy cho biết, khi thực hiện quyết toán thuế TNCN, cơ quan thuế đã hiểu số tiền mà ông nhận từ doanh nghiệp là tiền lương, tiền công.

Do đó, đây là khoản thu nhập phải chịu thuế từ tiền lương, tiền công với bậc thuế lũy tiến. Việc này khiến ông phải nộp thêm số thuế TNCN là hơn 765 triệu đồng, mặc dù chỉ nhận thêm 119 triệu thu nhập.

“Đáng ra trường hợp này, nếu có hiểu biết về thuế thì tôi phải đăng ký là Hộ kinh doanh hay doanh nghiệp, hoặc công ty, thì sẽ tránh được sự cố mất tiền oan như trên”, ông Huy nuối tiếc.

Theo các chuyên gia, những trường hợp nêu trên khá phổ biến trong đời sống hiện nay trong bối cảnh các luật về thuế của nhà nước ngày càng chặt chẽ, đầy đủ nhằm đảm bảo sự minh bạch, công bằng trong các sắc thuế đối với người dân và doanh nghiệp, tránh thất thu thuế, trốn thuế.

Có thể liệt kê các rủi ro có thể gặp phải đối với thuế TNCN hiện nay như bị chịu mức thuế cao hơn, bị xử phạt, bị ấn định thuế, chưa tối ưu được số thuế phải nộp đảm bảo quy định pháp luật…

Trong đó, nguyên nhân của việc này đến chủ yếu từ thiếu kiến thức và kinh nghiệm trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế khiến cá nhân kê khai thiếu hoặc sai thu nhập chịu thuế. Đồng thời, không có đầy đủ chứng từ, không lưu trữ được đầy đủ các giấy tờ về thuế…

“Với cá nhân, hiểu biết về thuế TNCN là một điều vô cùng quan trọng vừa giúp tuân thủ pháp luật, đảm bảo nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, tránh rủi ro về thuế đồng thời có thể giảm thiểu số thuế phải nộp, tối đa hoá thu nhập sau thuế”, vị chuyên gia nhận định.

Hiểu về luật thuế: Tối ưu quyết định trong quản lý tài chính cá nhân

Trao đổi với VietnamFinance, ThS. Nguyễn Văn Tâm, cho biết, trong bối cảnh kinh tế hiện đại, việc quản lý tài chính cá nhân không chỉ dừng lại ở việc kiếm tiền và tiết kiệm.

Một yếu tố quan trọng không kém, nhưng thường bị người Việt bỏ qua, chính là hiểu biết về pháp luật thuế, nắm vững cấu trúc và nguyên tắc hoạt động của hệ thống thuế TNCN và tối ưu hóa thuế.

Đầu tiên, ông Tâm cho rằng thuế TNCN có thể phức tạp, nhưng cần hiểu rõ về giảm trừ gia cảnh và tận dụng các khoản giảm trừ đúng pháp luật. Ngoài giảm trừ bản thân, việc đăng ký giảm trừ người phụ thuộc (NPT) có thể làm giảm số thuế đáng kể.

Lưu ý về việc đăng ký NPT, cần chuẩn bị hồ sơ theo quy định và nộp hồ sơ cho cơ quan thuế hoặc tổ chức, cá nhân trả thu nhập (nếu ủy quyền quyết toán thuế cho tổ chức/cá nhân đó) và đăng ký đúng thời hạn. Để tối ưu thuế TNCN cho cả gia đình thì việc chuyển đổi NPT sang người có thu nhập cao hơn trong gia đình là một chiến lược tối ưu thuế TNCN khá phổ biến và hoàn toàn hợp pháp.

“Người có thu nhập cao hơn thường phải chịu thuế suất cao hơn (theo biểu thuế lũy tiến từng phần). Khi được giảm trừ gia cảnh, số tiền thuế giảm đi sẽ lớn hơn so với người có thu nhập thấp”, Ths Tâm gợi ý.

Ths. Nguyễn Văn Tâm cũng nhấn mạnh thêm rằng đối với việc tham gia vào việc đóng vào Quỹ hưu trí tự nguyện hoặc mua Bảo hiểm hưu trí tự nguyện, hãy lưu giữ các giấy tờ để kê khai giảm trừ khi quyết toán, tối đa không quá 1 triệu đồng/tháng.

Đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo, khuyến học, sẽ được giảm trừ khi đóng góp vào các quỹ từ thiện, quỹ nhân đạo, quỹ khuyến học được thành lập và hoạt động theo quy định và lưu trữ các chứng từ thu hợp pháp do các tổ chức, các quỹ của Trung ương hoặc của tỉnh cấp.

Ngoài ra, vị chuyên gia FIDT cho biết, đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công, hãy lưu ý một số khoản được miễn thuế cần bóc tách để hưởng những ưu đãi theo quy định của pháp luật.

Cũng theo ông Tâm, việc lập kế hoạch thuế thông minh cùng với kế hoạch tài chính cá nhân toàn diện là rất cần thiết. Trước hết, cần tìm hiểu các chiến lược đầu tư, chuyển nhượng, thừa kế có thể giúp giảm thiểu số thuế phải nộp một cách hợp pháp.

“Đối với đầu tư và chuyển nhượng bất động sản (BĐS), cần lưu ý về điều kiện: Chỉ có duy nhất một nhà ở, quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam, thời gian tối thiểu tính đến thời điểm chuyển nhượng tối thiểu là 183 ngày và chuyển nhượng toàn bộ sẽ được miễn thuế TNCN”, Ths Nguyễn Văn Tâm nêu dẫn chứng.

Hoặc đối với việc cho, tặng, thừa kế người thân trong gia đình cũng cần có kế hoạch cụ thể nhằm tối ưu hóa số thuế. Đơn cử, thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản (nhà ở, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất) giữa những người thân như vợ với chồng, cha mẹ đẻ (nuôi, vợ, chồng)…

Có thể chuyển nhượng, cho tặng, thừa kế cho người thân chưa từng sở hữu BĐS nào để có thể tận dụng ưu đãi về miễn thuế TNCN đối với chuyển nhượng BĐS của cá nhân chỉ sở hữu duy nhất một BĐS.

Ngoài ra, trường hợp cá nhân có chứng khoán, vốn góp cổ phần và vốn góp đầu tư vào các doanh nghiệp, nếu cá nhân trong gia đình có mong muốn chuyển giao lại cho các cá nhân khác cần lưu ý một số mức thuế suất nhất định. Điều này giúp kế hoạch chuyển giao lại tài sản cho các thế hệ sau được tối ưu về thuế TNCN.

Kế đến, ông Tâm lưu ý thời điểm phát sinh thu nhập để có kế hoạch phân bổ thu nhập hợp lý (nếu có thể). Các khoản thu nhập từ tiền lương, tiền công phát sinh trong kỳ sẽ làm tăng thu nhập tính thuế và kéo theo tăng bậc thuế phải chịu trong biểu thuế lũy tiến.

Trong trường hợp, ước tính thu nhập từ tiền lương, tiền công trong năm nay phát sinh cao, có thể cân nhắc lựa chọn thời điểm nhận được thu nhập từ tiền lương, tiền công của các hợp đồng. Với các công việc phát sinh trải dài trong 2 năm, có thể thay vì phân bổ nhận theo tháng trong năm, có thể điều chỉnh nhận thu nhập một lần vào năm tiếp theo.

Theo Ths Nguyễn Văn Tâm, một điểm nữa phải chú ý là cần tránh các sai lầm trong việc quyết toán thuế TNCN như: lựa chọn sai phương án quyết toán, chậm thời gian kê khai và quyết toán thuế, chưa khấu trừ tại nguồn đối với các khoản thu nhập từ tiền công, tiền lương vãng lai…

“Tối ưu hóa thuế không phải là hành vi trốn thuế, mà là việc tận dụng mọi cơ hội hợp pháp để giảm thiểu số thuế phải nộp, từ đó tối đa hóa thu nhập sau thuế”, Ths Nguyễn Văn Tâm kết luận.

Xuân Thạch

Nguồn: vietnamfinance.vn

Với quyết tâm đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện Nghị định số 70/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2020/NĐ-CP quy định về hóa đơn, chứng từ, chiều ngày 26/3/2025, Cục Thuế ban hành Thông báo số 91/TB-CT chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ thuộc Cục Thuế tập trung triển khai các nhóm nhiệm vụ trọng tâm.

Ngành Thuế mong muốn sẽ là chất xúc tác quan trọng hỗ trợ cộng đồng DN và NNT hướng đến sự phát triển mạnh mẽ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh

Tại nội dung Thông báo số 91/TB-CT cho biết, ngày 20/3/2025, Lãnh đạo Cục Thuế đã chủ trì họp về kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số 70/2025/NĐ-CP ngày 20/3/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2020/NĐ-CP quy định về hóa đơn, chứng từ. Trên cơ sở thảo luận tại cuộc họp, Cục Thuế đề nghị các đơn vị tiếp tục thực hiện các công việc được phân công tại Quyết định số 119/QĐ-TCT, Thông báo số 163/TB-TCT và Thông báo số 58/TB-TCT, đồng thời triển khai ngay một số công việc. Cụ thể:

Kiên định mục tiêu chuyển đổi số toàn diện để hỗ trợ tối đa cộng đồng DN và NNT phát triển“Cục Thuế đã được tổ chức, sắp xếp lại cơ cấu bộ máy theo hướng tinh gọn, theo đó ngành Thuế quyết tâm tập trung và đẩy nhanh tiến độ triển khai công tác tham mưu chính sách, chuyển đổi số về quy trình quản lý thuế toàn diện, đồng bộ và tổ chức triển khai thực hiện yêu cầu nhiệm vụ quản lý thuế trong tình mới với quyết tâm cơ quan thuế phải thực sự hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời kiên định thực hiện mục tiêu “Lấy người nộp thuế làm trung tâm để phục vụ”.Để cùng phối hợp chặt chẽ hướng đến sự phát triển mạnh mẽ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, ngành Thuế đề nghị cộng đồng DN và NNT trên cả nước cùng chung tay xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, đúng pháp luật, đảm bảo việc thực hiện quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của DN và NNT.

Thứ nhất, giao Ban Chính sách, thuế quốc tế: (i) Chủ trì, phối hợp với các đơn vị của Cục Thuế để chuẩn bị tài liệu báo cáo Bộ về kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số 70/2025/NĐ-CP; (ii) Trình Cục Thuế ban hành công văn giới thiệu một số nội dung mới của Nghị định số 70/2025/NĐ-CP; (iii) Tổng hợp và giải đáp vướng mắc về chính sách hóa đơn của Chi cục Thuế khu vực và NNT khi phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện.

Song song với đó khẩn trương xây dựng Thông tư hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Quản lý Thuế ngày 13/6/2019, Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về hóa đơn, chứng từ, Nghị định số 70/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 123/2020/NĐ-CP (Thông tư thay thế Thông tư số 78/2021/TT-BTC) về hóa đơn chứng từ và Thông tư sửa đổi, bổ sung một số Điều của Thông tư số 23/2021/TT-BTC hướng dẫn việc in, phát hành, quản lý và sử dụng tem điện tử rượu và tem điện tử thuốc lá theo thời hạn chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tài chính.

Thứ hai, giao Ban Pháp chế: (i) Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 125/2020/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính về hóa đơn, chứng từ điện tử; (ii) Báo cáo Lãnh đạo Cục tiến độ xây dựng Nghị định đến thời điểm hiện tại, kế hoạch và phương án đảm bảo thời hạn trình các cấp có thẩm quyền.

Đồng thời phải tập trung giải đáp vướng mắc về các nội dung liên quan xử phạt vi phạm hành chính về hóa đơn, chứng từ điện tử; Có ý kiến pháp lý đối với các Quyết định sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế quy trình, định dạng chuẩn dữ liệu liên quan đến Nghị định sửa đổi, bổ sung và các công văn hướng dẫn để đảm bảo tính thống nhất;

Ban Pháp chế tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách và xây dựng chương trình khung về công tác tuyên truyền các quy định mới liên quan đến hóa đơn, chứng từ điện tử; Thực hiện công tác hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật về hóa đơn và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật về hóa đơn.

Thứ ba, giao Văn phòng: (i) Thực hiện công tác kiểm soát thủ tục hành chính và công bố thủ tục hành chính theo quy định; (ii) Phối hợp các đơn vị của Cục Thuế, các Chi cục Thuế khu vực đẩy mạnh triển khai công tác truyền thông qua báo chí, các phương tiện truyền thông đại chúng và trang thông tin điện tử của Cục Thuế đảm bảo chính sách pháp luật đến với NNT.

Thứ tư, giao Ban Nghiệp vụ thuế: Tiếp tục chủ trì và phối hợp các Ban/đơn vị liên quan trình Cục Thuế, trình Bộ công văn gửi Lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương về việc phối hợp với cơ quan thuế trong việc triển khai thực hiện hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền theo quy định tại Nghị định số 70/2025/NĐ-CP; tham mưu cho UBND các tỉnh, thành phố về việc hỗ trợ kinh phí ban đầu về máy tính, máy in cho hộ, cá nhân kinh doanh thuộc diện triển khai hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền (MTT) nhưng chưa đáp ứng điều kiện về hạ tầng công nghệ thông tin;

Đồng thời chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan để khảo sát thực tế tại các Chi cục Thuế khi xây dựng quy trình đăng ký, sử dụng hóa đơn điện tử của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh; đăng ký, sử dụng chứng từ/biên lai điện tử; quy trình quản lý hóa đơn điện tử, chứng từ điện tử (trong đó: có hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền); sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các quy trình: Quy trình số 1447/QĐ-TCT ngày 05/10/2021 về hóa đơn, chứng từ điện tử; và Quyết định số 1391/QĐ-TCT về việc ban hành quy trình quản lý hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế khởi tạo từ MTT đảm bảo phù hợp với quy định của Nghị định và khả thi khi thực hiện.

Cơ quan thuế các cấp tăng cường công tác tuyên truyền hỗ trợ NNT thực hiện thủ tục thuế điện tử

Thứ năm, giao Ban Quản lý tuân thủ và hỗ trợ NNT: (i) Chủ trì trình Cục Thuế sửa đổi, bổ sung Bộ tiêu chí liên quan đến quản lý rủi ro trong công tác quản lý hóa đơn, chứng từ điện tử; tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các tiêu chí phân tích rủi ro về hóa đơn trong quản lý thuế; (ii) Hướng dẫn cơ quan thuế các cấp triển khai thực hiện văn bản trao đổi thông tin hóa đơn, chứng từ điện tử theo các đầu mối trao đổi thông tin với các cơ quan, tổ chức bên ngoài đồng cấp hoặc theo phân công của thủ trưởng cơ quan thuế;

Bên cạnh đó, thực hiện vai trò chủ trì trình Cục Thuế ban hành văn bản hướng dẫn quản lý rủi ro, phương án dừng xuất các hóa đơn đối với trường hợp rủi ro rất cao theo quy định tại Điều 16 Nghị định 70/2025/NĐ-CP; Chủ trì, các đơn vị Ban Thanh tra kiểm tra, Chi cục Thuế TMĐT và các Chi cục Thuế địa phương phối hợp áp dụng các biện pháp nghiệp vụ quản lý thuế để đánh giá, phân tích dòng tiền, đối chiếu số liệu … để xác định Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có doanh thu từ 1 tỷ VND trở lên để áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền theo quy định.

Thứ sáu, giao Chi cục Thuế doanh nghiệp lớn: Phổ biến, hướng dẫn các quy định mới về hóa đơn, chứng từ điện tử tại các DN lớn do Chi cục Thuế quản lý.

Đồng thời tổ chức kiểm tra, giám sát việc sử dụng hóa đơn điện tử của các cửa hàng kinh doanh xăng dầu. Thực hiện tổng hợp và phân tích dữ liệu liên quan đến hoạt động kinh doanh xăng dầu (bao gồm số lượng cửa hàng, số cột bơm, sản lượng tiêu thụ, doanh thu…) đồng thời kết hợp với dữ liệu về phương tiện giao thông và sản lượng tiêu dùng thực tế để làm căn cứ so sánh, đối chiếu với dữ liệu kê khai của NNT. Từ đó, phát hiện dấu hiệu bất thường, khoanh vùng rủi ro và xây dựng kế hoạch và tổ chức kiểm tra việc phát hành, sử dụng hóa đơn điện tử theo từng lần bán hàng, nhất là tại các địa bàn, đối tượng có dấu hiệu rủi ro cao. Trường hợp phát hiện hành vi vi phạm hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật, kịp thời lập hồ sơ và chuyển cơ quan điều tra xử lý theo quy định.

Tập trung thực hiện ngay một số công việc– Nâng cấp Cổng thông tin điện tử dành cho nhà cung cấp ở nước ngoài; triển khai toàn quốc sau khi Ban Nghiệp vụ ban hành quy trình nghiệp vụ sửa đổi được Cục Thuế phê duyệt;- Phát triển hệ thống hỗ trợ truy xuất hóa đơn qua QR/đường dẫn cho người mua;- Tự động đối chiếu thông tin của người đại diện với dữ liệu từ Hệ thống CSDL quốc gia về dân cư;- Tích hợp với Hệ thống Định danh và xác thực điện tử;- Phát triển hệ thống xác nhận qua email và số điện thoại;- Phát triển hệ thống tích hợp QR code cho sản phẩm chịu thuế TTĐB;- Kết nối thông tin với Bộ Công Thương để quản lý hoạt động thương mại điện tử;- Tích hợp dữ liệu với cơ quan Hải quan;- Nâng cấp các chức năng tra cứu thông tin hóa đơn điện tử;- Phát triển giải pháp hỗ trợ đối tượng chưa đáp ứng điều kiện về hạ tầng CNTT.

Thứ bảy, giao Ban Công nghệ, chuyển đổi số và tự động hóa: (i) Chủ trì sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các Quyết định về định dạng, chuẩn dữ liệu hóa đơn, chứng từ điện tử (Quyết định số 635/QĐ-TCT ngày 11/5/2020, Quyết định số 1450/QĐ-TCT ngày 07/10/2021 và Quyết định số 1510/QĐ-TCT ngày 21/9/2022); (ii) Phối hợp với hơn 100 tổ chức cung cấp giải pháp hóa đơn điện tử để hỗ trợ hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trong việc triển khai hệ thống máy tính tiền đáp ứng yêu cầu kết nối và chuyển dữ liệu đến cơ quan thuế;

Song song với đó, tập trung bổ sung, nâng cấp kịp thời máy chủ, thiết bị lưu trữ, thiết bị bảo mật theo các dự án đầu tư công trong tháng 03/2025 đảm bảo hạ tầng kỹ thuật ổn định, bảo mật và dễ sử dụng; Chủ trì, khẩn trương phối hợp với các đơn vị liên quan để triển khai nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin, các ứng dụng hóa đơn, chứng từ điện tử đáp ứng quy định tại Nghị định Nghị định số 70/2025/NĐ-CP.

Thứ tám, về nội dung tổ chức tập huấn:

Ban Chính sách, thuế quốc tế chủ trì, phối hợp các Ban/đơn vị của Cục Thuế trình Cục kế hoạch tổ chức tập huấn các Chi cục Thuế khu vực, các đội thuế về quy định mới tại Nghị định;

Các Ban nghiệp vụ thuế, Ban Công nghệ, chuyển đổi số, Ban Quản lý tuân thủ chủ trì chuẩn bị tài liệu tập huấn liên quan đến chức năng nhiệm vụ, trình bày các nội dung liên quan để hướng dẫn thực hiện quy trình nghiệp vụ mới về hóa đơn, chứng từ theo quy định tại Nghị định số 70/2025/NĐ-CP.

Thứ chín, giao các Chi Cục trưởng Chi cục Thuế khu vực: Tập trung tuyên truyền, phổ biến quy định mới của Nghị định số 70/2025/NĐ-CP tới công chức thuế và NNT để NNT hiểu và thực hiện việc sử dụng hóa đơn, chứng từ điện tử và chuẩn bị các điều kiện đảm bảo triển khai khả thi, hiệu quả; Tham mưu UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo các sở, ban, ngành phối hợp với cơ quan thuế giám sát chặt chẽ, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc phát hành và sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ MTT, việc áp dụng hóa đơn điện tử của các cửa hàng kinh doanh xăng dầu.

Thanh Thanh

Bộ Tài chính vừa ban hành Quyết định số 1047/QĐ-BTC công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực quản lý thuế thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tài chính.

Theo đó, kể từ ngày 27/3/2025, người nộp thuế khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp theo phương pháp doanh thu – chi phí gửi hồ sơ khai thuế qua giao dịch điện tử. Quyết định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 27/3/2025.

Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý thuế luôn được ngành Thuế quan tâm rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn quản lý

Quyết định số 1047/QĐ-BTC quy định: Người nộp thuế (NNT) thu nhập doanh nghiệp (TNDN) tính thuế theo phương pháp doanh thu – chi phí theo quy định của pháp luật về thuế TNDN chuẩn bị số liệu, lập hồ sơ khai thuế và gửi đến cơ quan thuế quản lý trực tiếp chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng thứ 3 kể từ ngày kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính đối với trường hợp khai quyết toán thuế thu nhập DN năm; chậm nhất là ngày thứ 45, kể từ ngày có quyết định giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động hoặc tổ chức lại DN.

Trường hợp NNT gửi hồ sơ qua giao dịch điện tử: NNT truy cập vào Cổng TTĐT mà NNT lựa chọn, gồm: Cổng TTĐT Cục Thuế hoặc Cổng TTĐT của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm: Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng dịch vụ công cấp Bộ, cấp tỉnh theo quy định về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính và đã được kết nối với Cổng TTĐT của Cục Thuế (Cổng TTĐT của cơ quan nhà nước có thẩm quyền)/Cổng thông tin của tổ chức cung cấp dịch vụ T-VAN) để khai hồ sơ khai thuế và các phụ lục đính kèm theo quy định dưới dạng điện tử (nếu có), ký điện tử và gửi đến cơ quan thuế qua Cổng TTĐT mà NNT lựa chọn.

Trường hợp chuyển đổi loại hình DN (không bao gồm DN nhà nước cổ phần hóa) mà DN chuyển đổi kế thừa toàn bộ nghĩa vụ về thuế của DN được chuyển đổi, thì không phải khai quyết toán thuế đến thời điểm có quyết định về việc chuyển đổi DN, DN khai quyết toán khi kết thúc năm.

NNT thực hiện tạm nộp thuế thu nhập DN theo quý (gồm cả tạm phân bổ số thuế thu nhập DN cho địa bàn cấp tỉnh nơi có đơn vị phụ thuộc, địa điểm kinh doanh, nơi có bất động sản chuyển nhượng khác với nơi NNT đóng trụ sở chính) chậm nhất là ngày 30 của tháng đầu quý sau và khai quyết toán thuế thu nhập DN năm. Cục Thuế thực hiện việc nhập và đăng tải dữ liệu thủ tục hành chính theo quy định.

* Nội dung Quyết định số 1047/QĐ-BTC đính kèm:

Tài liệu đính kèm :

Quyết định số 1047-QĐ-BTC .pdf (1,9 MB)

Minh Đức

Bộ Tài chính đề xuất giảm giá trị miễn thuế từ 2 triệu đồng xuống còn 1 triệu theo từng đơn hàng đối với hàng hoá nhập khẩu giao dịch qua thương mại điện tử (TMĐT), tổng định mức miễn giảm còn 48 triệu/năm

TIN LIÊN QUAN

Tại tờ trình Dự thảo Nghị định quy định về quản lý hải quan đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu giao dịch qua TMĐT, Bộ Tài chính đề xuất giảm mức trị giá miễn thuế nhập khẩu từ 2 triệu đồng xuống còn 1 triệu đồng đối với hàng hoá có giá trị hải quan theo từng đơn hàng.

Cùng với đó, điều chỉnh tổng định mức miễn thuế từ 96 triệu/năm xuống còn mức 48 triệu đồng/năm.

Miễn thuế nhập khẩu cho đơn hàng online dưới 1 triệu đồng

Lý giải cho đề xuất này, Bộ Tài chính cho biết việc miễn thuế phải đảm bảo thống nhất theo quy định tại Luật thuế hiện hành và đảm bảo công bằng với những trường hợp mua bán hàng hoá khác không giao dịch qua TMĐT.

Đồng thời, trước đây việc giới hạn số lần mua hàng theo ngày và theo tháng đã không còn phù hợp, gây khó khăn trong việc theo dõi và thực hiện trong thực tế.

Ngoài ra, tờ trình cũng quy định việc miễn giấy phép, điều kiện, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hoá xuất nhập khẩu giao dịch qua thương mại điện tử.

Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất lựa chọn phương án hàng hoá nhập khẩu giao dịch qua TMĐT có giá trị hải quan theo đơn hàng từ 1 triệu đồng trở xuống (trừ hàng hoá phải kiểm dịch, hàng hoá thuộc danh mục quản lý của Bô Văn hoá, Thể thao, Du lịch, hàng hoá thuộc danh mục phế liệu được phép nhập khẩu) được miễn giấy phép, điều kiện, miễn kiểm tra chuyên ngành nhưng tổng giá trị hàng hoá được miễn không quá 48 triệu đồng/năm đối với mỗi tổ chức, cá nhân.

Bộ Tài chính đề xuất lựa chọn phương án này bởi quy định về miễn giấy phép, điều kiện miễn kiểm tra này được áp dụng cùng thời điểm với hiệu lực thị hành của Nghị định.

Về chia nhóm hàng hoá xuất nhập khẩu, để có biện pháp quản lý phù hợp dựa trên kinh nghiệm thông lệ quốc tế, và mức độ rủi ro đối với từng loại hàng hoá, Bộ Tài chính dự kiến chia thành 2 nhóm để thực hiện thủ tục hải quan. Nhóm 1 là hàng hoá không thuộc danh mục mặt hàng phải có giấy phép và điều kiện theo Luật quản lý Ngoại thương; không thuộc danh mục mặt hàng phải kiểm tra chuyên ngành; hàng hoá được miễn giấy phép, miễn điều kiện kiểm tra và hàng hoá không thuộc trường hợp áp thuế phòng vệ thương mại. Còn lại sẽ là hàng hoá nhóm 2.

Sự phát triển của TMĐT đặt ra nhiều thách thức trong quản lý thuế và xuất nhập khẩu hàng hoá

Bộ Tài chính cho rằng, việc đưa ra đề xuất trên có tham khảo kinh nghiệm các nước về quản lý hàng xuất nhập khẩu qua sàn TMĐT.

Cụ thể, Indonesia hàng hoá được phép bán trực tiếp từ nước ngoài thông qua sàn TMĐT phải xác định mức giá tối thiểu đối với hàng hoá này. Còn tại Thái Lan, chính phủ yêu cầu Cục thuế và Cục Hải Quan tăng cường ngăn chặn tình trạng tràn lan các sản phẩm hàng hoá rẻ từ Trung Quốc tràn vào thông qua việc thu 7% thuế gia trị gia tăng có giá dưới 1.500 Bath (tương đương khoảng 1,1 triệu đồng).

Hay như Hàn Quốc đang xem xét sửa đội đạo Luật Thương mại điện tử nhằm kiểm soát chất lượng hàng hoá nhập khẩu, bảo vệ người tiêu dùng trong nước, bắt buộc các nhà khai thác nền tảng bán hàng trực tuyến nước ngoài phải thành lập văn phòng tại Hàn Quốc.

Ngoài ra, nhà điều hành cũng dẫn chứng, trong những năm vừa qua TMĐT phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng 15-20%. Quy mô thị trường TMĐT của VIệt Nam năm 2024 vượt mốc 25 tỷ USD, chỉ đứng sau Indonesia (65 tỷ USD) và Thái Lan (26 tỷ USD). Hiện Việt Nam được xếp vào top 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng TMĐT hàng đầu thế giới.

Theo Bộ Tài chính, việc này cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc quản lý. Các tổ chức, cá nhân lợi dụng kinh doanh xuyên biên giới để trốn thuế, gây thất thu ngân sách nhà nước, doanh nghiệp không cần có trụ sở, thực hiện giao dịch bằng điện tử, máy chủ đặt ở nước ngoài gây khó khăn trong việc xác định người nộp thuế và căn cứ tính thuế.

Đồng thời, việc kiểm soát dòng tiền không dễ bởi chủ thể tiêu dùng có thể sử dụng cả phương án thanh toán bằng tiền mặt và tiền điện tử. Chưa kể, chiến lược phát triển TMĐT của Trung Quốc trong thời gian gần dây sẽ tạo ra nhiều nguy cơ khó lường đối với thị trường hàng hoá Việt Nam.

“Việc sửa đổi và ban hành Nghị định đảm bảo hành lang pháp lý cho thương mại điện tử, phù hợp với hệ thống Luật hiện hành và thực tiễn phát triển của TMĐT cũng như các cam kết quốc tế”, Bộ Tài chính nêu trong Tờ trình.

Khôi Nguyên

Nguồn: vietnamfinance.vn

Năm 2025, ngành tôm tiếp tục được kỳ vọng sẽ phát triển mạnh mẽ nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến môi trường, chi phí sản xuất và yêu cầu bền vững từ thị trường quốc tế.

Phát triển thương hiệu tôm Việt xanh và sạch- Ảnh 1.
Dự báo năm 2025, xuất khẩu tôm có thể đạt 4,3-4,5 tỷ USD – Ảnh: TTX

Cơ hội song hành thách thức phát triển ngành tôm

Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, năm 2024, diện tích nuôi tôm nước lợ đạt 737.000 ha, với sản lượng 1,264 triệu tấn, tăng 5,3% so với năm 2023. Dự báo năm 2025, diện tích nuôi tôm nước lợ sẽ tăng lên 750 nghìn ha, tương ứng với sản lượng 1,29 triệu tấn, tăng 2% so với 2024. Hai loài tôm chủ lực là tôm sú và tôm chân trắng vẫn chiếm tỷ trọng lớn, với sản lượng mục tiêu lần lượt là 400 nghìn tấn và 700 nghìn tấn.

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết xuất khẩu tôm năm 2024 đạt gần 4 tỷ USD, tăng 14% so với 2023. Nhu cầu tăng cao từ các thị trường lớn như Mỹ, EU và Trung Quốc, đặc biệt trong dịp lễ hội cuối năm và Tết Nguyên Đán đã thúc đẩy các đơn hàng. Dự báo năm 2025, xuất khẩu tôm có thể đạt 4,3-4,5 tỷ USD, tăng 10-15%, nhờ sự phục hồi của các thị trường chính và sự phát triển của các sản phẩm tôm chế biến giá trị cao.

Tuy cơ hội để gia tăng giá trị sản phẩm ngành tôm rất lớn nhưng ngành tôm Việt Nam cũng đang đối mặt với nhiều thách thức không nhỏ.

Thứ nhất, chi phí sản xuất cao là rào cản chính. Ông Lê Văn Quang, Chủ tịch Tập đoàn Minh Phú, cho biết chi phí sản xuất tôm Việt Nam cao hơn 30% so với Ấn Độ và Indonesia, và gấp đôi Ecuador, khiến tôm Việt Nam khó cạnh tranh. Chi phí thức ăn chiếm 46-47% tổng chi phí trong nuôi tôm bán thâm canh và thâm canh, theo Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. Ngoài ra, giá tôm nguyên liệu liên tục biến động, thậm chí có thời điểm “chạm đáy” trong năm 2024, khiến nhiều nông dân phải treo ao.

Thứ hai, vấn đề môi trường và bệnh tật vẫn nan giải. Nuôi tôm thâm canh gây ô nhiễm nguồn nước, làm suy thoái đất và phá hủy rừng ngập mặn – vốn là lá chắn bảo vệ hệ sinh thái ven biển. Dịch bệnh trên tôm cũng là mối đe dọa lớn, với các dịch bệnh như hội chứng chết sớm (EMS), Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) và bệnh phân trắng (WSSV) gây thiệt hại nặng nề.

Thứ ba, yêu cầu từ thị trường quốc tế ngày càng khắt khe. Các thị trường lớn như Mỹ và EU đòi hỏi tôm phải đạt chứng nhận bền vững, không chứa kháng sinh và có nguồn gốc rõ ràng. Điều này gây khó khăn cho các trang trại nhỏ lẻ, vốn chiếm 80% diện tích nuôi tôm, do thiếu vốn và kỹ thuật để đáp ứng tiêu chuẩn.

Phát triển thương hiệu tôm Việt xanh và sạch- Ảnh 2.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh yếu tố tiên quyết để giữ an toàn và phát triển hiệu quả các vùng nuôi tôm đó là địa phương cần quan tâm nhiều hơn đến tổ chức sản xuất, liên kết chuỗi – Ảnh: VGP/Đỗ Hương

Tăng diện tích sản xuất, nâng cao chất lượng bằng ứng dụng công nghệ

Để vượt qua thách thức và đạt mục tiêu tăng trưởng, ngành tôm Việt Nam đang triển khai nhiều giải pháp chiến lược. Thứ nhất, chuyển đổi sang mô hình bền vững là ưu tiên hàng đầu.

Theo GS.TS Võ Nam Sơn, Phó Trưởng Khoa Khoa Khoa học và Công nghệ Biển, Đại học Cần Thơ cho biết nuôi tôm thâm canh và siêu thâm canh hiện thải ra 9,3-12,5 kg CO2/kg tôm tươi, gây áp lực lớn lên môi trường. Tuy nhiên, các mô hình bền vững như chứng nhận ASC (Aquaculture Stewardship Council) đã mang lại giá trị gia tăng, với giá bán cao hơn 10-30% so với tôm thông thường. VASEP cũng ghi nhận các doanh nghiệp áp dụng mô hình bền vững đạt tăng trưởng doanh thu 15-20%, cho thấy tiềm năng kinh tế của việc chuyển đổi xanh.

Cụ thể như tập đoàn Minh Phú đã phát triển công nghệ MPBio, giảm 30-50% chi phí sản xuất, 50-70% chi phí điện và 30% chi phí thức ăn, đồng thời sử dụng vi sinh vật để ngăn ngừa bệnh tật. Công nghệ này đã được giới thiệu tại các triển lãm quốc tế năm 2024 và dự kiến mở rộng áp dụng trong năm 2025.

Bên cạnh đó, ngành tôm cũng cần tăng cường liên kết chuỗi giá trị. GS. TS Trần Ngọc Hải chuyên ngành Thủy sản, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Cần Thơ nhấn mạnh việc chuyển đổi sang mô hình nuôi tôm chuyên nghiệp, hiệu quả, thích ứng với biến đổi khí hậu và đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Các trang trại nhỏ cần liên kết với doanh nghiệp và hợp tác xã để đảm bảo đầu ra ổn định, thay vì phụ thuộc vào thị trường tự do.

Thứ ba, chính sách hỗ trợ từ chính phủ là yếu tố then chốt. VASEP đã đề xuất Chính phủ, Bộ Ngoại giao và Bộ Công Thương đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, đàm phán song phương và xúc tiến thương mại tại các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản để tận dụng lợi thế xuất khẩu. Đồng thời, cần kiểm soát chặt chẽ chất lượng giống tôm, cấp phép mặt nước để người dân dễ dàng vay vốn ngân hàng, và đầu tư vào công nghệ giảm phát thải.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh yếu tố tiên quyết để giữ an toàn và phát triển hiệu quả các vùng nuôi tôm đó là: “Các địa phương cần quan tâm nhiều hơn đến tổ chức sản xuất, liên kết chuỗi sản xuất… hướng đến sản xuất xanh, ít phát thải và ứng dụng công nghệ số trong nuôi trồng thủy sản”.

Ngành tôm Việt Nam năm 2025 có nhiều triển vọng phát triển, với mục tiêu xuất khẩu 4,3-4,5 tỷ USD, nhưng vẫn đối mặt với thách thức về chi phí, môi trường và tiêu chuẩn quốc tế. Ngành tôm Việt Nam không chỉ cần duy trì vị thế mà còn phải khẳng định thương hiệu “tôm sạch, tôm xanh” trên bản đồ thủy sản toàn cầu.

Đỗ Hương

Nguồn: www.chinhphu.vn

Nhằm kích cầu tiêu dùng, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp (DN), thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, Bộ Tài chính đề xuất Chính phủ cho phép tiếp tục giảm thuế giá trị gia tăng (GTGT) 2% đối với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ, đồng thời mở rộng thêm đối tượng được thụ hưởng. Thời gian áp dụng từ 1/7/2025 đến hết ngày 31/12/2026.

Việc giảm thuế GTGT 2% thời gian qua đã có tác động tích cực trong việc kích cầu tiêu dùng

Bổ sung một số nhóm dịch vụ, hàng hóa được giảm thuế

Ngày 24/3/2025, Bộ Tài chính đã có Công văn số 3624/BTC-CST gửi các bộ, ngành, UBND các tỉnh, TP…  xin ý kiến về dự án Nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế GTGT. Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất giảm thuế GTGT 2% từ 1/7/2025 đến hết 31/12/2026 đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% (còn 8%), trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ như viễn thông, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, sản phẩm kim loại, sản phẩm khai khoáng (trừ than), sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (trừ xăng).

Đồng thời, mở rộng đối tượng được giảm thuế suất thuế GTGT 2%, bao gồm: sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin (như máy giặt, lò vi sóng, dịch vụ xử lý dữ liệu, cho thuê và các hoạt động liên quan, cổng thông tin…), sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (như thùng, bể chứa và dụng cụ chứa đựng bằng kim loại, nồi hơi…); than cốc, dầu mỏ tinh chế (như than cốc, nhiên liệu dầu và xăng, dầu mỡ bôi trơn…), sản phẩm hoá chất (như phân bón và hợp chất ni tơ, plastic và cao su tổng hợp dạng nguyên sinh…), than ở khâu nhập khẩu và than bán ra ở khâu kinh doanh thương mại; xăng, dầu.

Lý giải cho đề xuất này, cơ quan soạn thảo cho rằng, đây là những hàng hoá, nguyên liệu đầu vào sản xuất các hàng hoá tiêu dùng trực tiếp cho người dân. Với mặt hàng mặc dù mặt hàng xăng thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB và mặt hàng dầu thuộc danh mục sản phẩm khai khoáng, đây là những mặt hàng quan trọng đối với nhiều ngành sản xuất, kinh doanh cũng như đời sống người dân và giá xăng, dầu nói chung tăng hoặc giảm sẽ tác động trực tiếp đến sản xuất, tiêu dùng trong nước và ổn định kinh tế vĩ mô.

Bộ Tài chính cho rằng, đây là những hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho mục đích tiêu dùng trực tiếp của người dân. Riêng đối với xăng, dầu, mặc dù thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB và mặt hàng dầu thuộc danh mục sản phẩm khai khoáng nhưng lại là những mặt hàng quan trọng đối với nhiều ngành sản xuất, kinh doanh cũng như đời sống người dân. Giá xăng, dầu nói chung tăng hoặc giảm sẽ tác động trực tiếp đến sản xuất, tiêu dùng trong nước và ổn định kinh tế vĩ mô. Do đó, việc bổ sung những nhóm hàng hóa, dịch vụ này được giảm thuế GTGT 2% sẽ góp phần quan trọng vào việc hỗ trợ người dân và DN.

Tác động đến tăng trưởng kinh tế

Thực tế cho thấy, kể từ khi chính sách giảm thuế GTGT 2% được triển khai đến nay đã có tác động tích cực, quan trọng trong việc kích thích tiêu dùng, hỗ trợ người dân và DN vượt qua khó khăn. Giải pháp giảm thuế GTGT cùng với các giải pháp hỗ trợ về thuế, phí, lệ phí khác đã và đang tạo điều kiện rất lớn giúp DN giảm được chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận; tăng khả năng kích cầu, từ đó thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và đạt được mục tiêu đề ra khi xây dựng chính sách giảm thuế GTGT.

Gần đây nhất, năm 2024, việc giảm thuế GTGT 2% đã hỗ trợ DN và người dân tổng cộng khoảng 49 nghìn tỷ đồng. Tính chung năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,0% so với năm 2023, các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội năm 2024 đều đạt và vượt.  

Tuy nhiên, hiện nay nền kinh tế nước ta còn tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Để góp phần tạo động lực thúc đẩy, phát triển kinh tế, hỗ trợ người dân, DN, Bộ Tài chính cho rằng cần tiếp tục thực hiện chính sách giảm thuế trong nước trong năm 2025 và năm 2026.

Theo tính toán của cơ quan soạn thảo, dự kiến số giảm thu NSNN trong 6 tháng cuối năm 2025 và cả năm 2026 tương đương khoảng 121,74 nghìn tỷ đồng.

Để bù đắp số hụt thu do thực hiện chính sách, cùng với việc các bộ ngành, địa phương Bộ Tài chính quyết liệt công tác thu NSNN, tăng cường quản lý, thanh tra, kiểm tra, cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác quản lý thuế, nhất là trong các lĩnh vực, địa bàn trọng điểm, thu từ đất, chuyển nhượng bất động sản, hoạt động thương mại điện tử, hoạt động kinh doanh trên nền tảng số… Phấn đấu thu NSNN năm 2025 cao hơn khoảng 10% so với ước thực hiện năm 2024.

Thúy Nga

Đối với nhóm hàng hóa dịch vụ như  viễn thông, kinh doanh bất động sản; hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm; sản phẩm khai khoáng (trừ than), sản phẩm kim loại; sản phẩm hàng hoá và dịch vụ chịu thuế TTĐB (trừ mặt hàng xăng) thuộc nhóm hàng hóa, dịch vụ đề xuất không giảm thuế. Theo lý giải của cơ quan soạn thảo, đây là những ngành chủ yếu đều thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT theo quy định của pháp luật về thuế GTGT hiện hành, lại có mức tăng trưởng tốt trong thời gian qua, thậm chí một số sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cần điều tiết tiêu dùng, nhưng không phục vụ mục tiêu kích cầu tiêu dùng, du lịch nội địa.

Nguồn: thuenhanuoc.vn