Bộ Tài chính đề xuất thuế thu nhập cá nhân phải được khấu trừ, kê khai và nộp ngay tại thời điểm nhận cổ tức, thưởng bằng chứng khoán.
Ở dự thảo sửa Nghị định 126 quy định một số điều của Luật Quản lý thuế, Bộ Tài chính cho biết cần quy định rõ thời điểm khấu trừ, kê khai thuế với thu nhập từ cổ tức, thưởng bằng chứng khoán để hạn chế lợi dụng chính sách, kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ thuế.
Vì vậy, Bộ Tài chính đề xuất thuế thu nhập cá nhân phải được khấu trừ, kê khai và nộp ngay tại thời điểm nhận cổ tức, thưởng bằng chứng khoán, thay vì đợi đến khi bán chứng khoán. Cơ quan này cũng đề xuất rằng tổ chức phát hành có trách nhiệm khấu trừ, nộp thay thuế cho cá nhân.
Theo Bộ Tài chính, cổ tức, lợi tức đang được chi trả bằng nhiều hình thức như bằng tiền mặt, chứng khoán hoặc ghi tăng vốn góp.
Cổ tức bằng tiền mặt được tổ chức chi trả khấu trừ, kê khai nộp thuế cho cá nhân và đã áp dụng hiệu quả, thông suốt trong thời gian qua.
Trong khi với cổ tức, thưởng bằng chứng khoán, cá nhân chỉ phải nộp thuế khi bán, chuyển nhượng cổ phiếu đó, không phải thực hiện ngay thời điểm nhận cổ tức.
Bộ Tài chính đánh giá quy định này gây bất cập. Bởi, nhiều cá nhân nhận cổ tức, thưởng bằng chứng khoán không có nhu cầu chuyển nhượng cổ phiếu hoặc vốn trong thời gian dài nên không phải kê khai, nộp thuế ngay tại thời điểm có thu nhập.
“Điều này gây ra hệ lụy là tài sản và thu nhập của các cá nhân, đặc biệt là cổ đông lớn, chiến lược như ban giám đốc, ban kiểm soát tăng lên nhưng chưa bị đánh thuế kịp thời”, Bộ Tài chính lo ngại.
Cùng với đó, Bộ Tài chính cũng cho rằng việc hoãn thời điểm kê khai, nộp thuế cho đến khi chuyển nhượng có thể tạo tình trạng “đóng thuế trễ” với khoản thu nhập thực tế đã tăng. Quy định này cũng gây khó khăn cho cơ quan thuế trong việc phải tiếp tục theo dõi, kiểm soát và thu thuế thu nhập cá nhân trong thời gian dài.
Mai Anh
Nguồn: vietnamfinance.vn
Không chỉ mỗi việc ‘có hóa đơn là xong’, từ ngày 1/7/2025, cách bạn thanh toán sẽ quyết định bạn có được khấu trừ thuế hay không.
Từ ngày 1/7/2025, theo quy định mới của Luật Thuế Giá trị Gia tăng (GTGT) sửa đổi, doanh nghiệp và hộ kinh doanh sẽ không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào nếu mua hàng hóa, dịch vụ nhưng thanh toán bằng tiền mặt.
Quy định này không chỉ tác động mạnh đến hoạt động kế toán – tài chính của doanh nghiệp, mà còn buộc người làm ăn, buôn bán phải thay đổi thói quen tiêu dùng tiền mặt, chuyển sang thanh toán qua ngân hàng, ví điện tử, QR code… nếu không muốn rơi vào cảnh ‘có hóa đơn mà vẫn mất quyền lợi’.
Từ 1/7, thanh toán tiền mặt mất luôn quyền khấu trừ thuế GTGT?
Cụ thể, khoản 10 Điều 1 Luật Thuế GTGT sửa đổi (có hiệu lực từ 1/7/2025) quy định rõ: “Cơ sở kinh doanh chỉ được khấu trừ thuế GTGT đầu vào với hóa đơn từ 20 triệu đồng trở lên nếu thanh toán qua ngân hàng hoặc phương thức không dùng tiền mặt”. Nếu thanh toán bằng tiền mặt, dù có hóa đơn hợp lệ, cũng sẽ không được khấu trừ thuế.
Như trường hợp của chị Hương, chủ một tiệm spa nhỏ tại Hà Nội, thường xuyên nhập mỹ phẩm, thiết bị chăm sóc da từ nhà cung cấp với đơn hàng khoảng 25-30 triệu đồng/lần. Trước đây, chị thường trả bằng tiền mặt hoặc chia làm nhiều đợt thanh toán.
Tuy nhiên, theo quy định mới, nếu chị tiếp tục thanh toán bằng tiền mặt thì số thuế GTGT đầu vào (khoảng 2-3 triệu đồng mỗi đơn hàng) sẽ không được khấu trừ, đồng nghĩa với việc chị Hương sẽ mất trắng số tiền này và phải cộng dồn vào chi phí kinh doanh.
Thói quen tiêu tiền mặt thay đổi theo quy định mới
Từ trước đến nay, phần lớn phụ nữ, đặc biệt là các chủ hộ kinh doanh nhỏ như salon tóc, cửa hàng quần áo, quán ăn, vẫn duy trì thói quen chi tiền mặt khi nhập hàng, mua thiết bị hay thanh toán tiền thuê mặt bằng. Họ thường nghĩ chỉ cần có đủ hóa đơn VAT là đã hoàn tất thủ tục để được khấu trừ thuế giá trị gia tăng (GTGT).
Tuy nhiên, theo Luật Thuế GTGT (sửa đổi), từ ngày 1/7/2025, mọi khoản chi mua hàng hóa, dịch vụ – không phân biệt giá trị bao nhiêu – nếu muốn được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, bắt buộc phải thanh toán không dùng tiền mặt.
Quy định mới không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền khấu trừ thuế, mà còn khiến doanh nghiệp và hộ kinh doanh gặp khó khăn trong việc chứng minh chi phí hợp lệ khi quyết toán thuế. Nếu không có chứng từ chuyển khoản, các khoản chi của doanh nghiệp rất dễ bị loại khỏi chi phí được trừ, dẫn đến nguy cơ bị truy thu thuế hoặc xử phạt.
Khoản 3, Điều 14 – Luật Thuế GTGT (sửa đổi) quy định rõ: ‘Hàng hóa, dịch vụ mua vào có hóa đơn giá trị gia tăng từ người bán phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt mới được khấu trừ thuế đầu vào’.
Trước đây, theo Thông tư 219/2013/TT-BTC, điều kiện thanh toán chuyển khoản chỉ áp dụng cho các giao dịch từ 20 triệu đồng trở lên. Nhờ vậy, doanh nghiệp vẫn có thể khấu trừ thuế đối với các giao dịch nhỏ nếu có hóa đơn hợp lệ. Luật mới bãi bỏ hoàn toàn ngưỡng 20 triệu đồng, siết chặt điều kiện khấu trừ thuế với tất cả giao dịch, bất kể giá trị lớn hay nhỏ.
Để hạn chế rủi ro và duy trì quyền lợi thuế, các chủ hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ cần chuẩn bị ngay từ bây giờ:
1. Mở tài khoản ngân hàng riêng cho hoạt động kinh doanh
Không dùng chung tài khoản cá nhân để tránh nhầm lẫn chi tiêu gia đình – công việc.
Nên chọn ngân hàng có dịch vụ Internet Banking miễn phí hoặc phí thấp.
2. Làm quen thanh toán không dùng tiền mặt
Ưu tiên chuyển khoản qua Internet Banking, Mobile Banking hoặc ví điện tử có liên kết ngân hàng.
Yêu cầu nhà cung cấp xuất hóa đơn VAT sau khi xác nhận đã nhận tiền.
3. Lưu giữ đầy đủ chứng từ chuyển tiền
In hoặc lưu file PDF sao kê, giấy ủy nhiệm chi, biên lai giao dịch điện tử.
Cất giữ kèm hóa đơn GTGT và phiếu nhập kho để chứng minh tính hợp lệ khi quyết toán.
4. Rà soát lại quy trình thanh toán
Thống nhất với nhà cung cấp về phương thức nhận tiền, thời gian chuyển khoản, xác nhận giao hàng.
Lập sổ theo dõi chi tiết các giao dịch để thuận tiện đối chiếu sổ sách và chứng từ.
Việc siết quy định về khấu trừ thuế GTGT không chỉ để chống thất thu ngân sách mà cònlà bước ngoặt mạnh mẽ trong việc thúc đẩy chuyển đổi số và minh bạch hóa trong hoạt động tài chính, đồng thời đòi hỏi người dân và doanh nghiệp phải điều chỉnh cách thức giao dịch hàng ngày, thậm chí từ những chi tiêu nhỏ nhất.
Theo PV
Nguồn: cafeF – Phụ nữ số
Một ngày cuối năm 1996, tại một căn phòng họp ở Hà Nội, TS Lê Văn Châu (lúc đó đang là Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đứng trước một quyết định thay đổi cả sự nghiệp của mình. Thủ tướng Võ Văn Kiệt đưa ra lời đề nghị ông đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước – một cơ quan chưa từng tồn tại ở Việt Nam.
Đảm trách cương vị mới bao hàm cả một thử thách lớn lao, khi mà thị trường chứng khoán còn là một khái niệm xa lạ, gần như không tưởng đối với một đất nước vừa thoát khỏi bóng tối của nền kinh tế bao cấp và đang chập chững trên con đường đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế.
Với nhiều người, đó là một vùng đất đầy rủi ro và thất bại có thể dễ dàng xảy ra hơn thành công. Nhưng đối với TS Lê Văn Châu, đây lại là cơ hội để đưa Việt Nam tiến gần hơn đến nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặt nền móng cho một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế Việt Nam.
TS Lê Văn Châu xuất thân là một cán bộ ngành Ngân hàng, được Đảng và Nhà nước lựa chọn gửi đi đào tạo bài bản ở nhiều nước. Ông được rèn luyện, thử thách trong chiến tranh qua việc tham gia tổ chức B29, một trong ba tổ chức thiết lập và vận hành “Con đường tiền tệ đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ”.
Tới năm 1987, sau 10 năm theo dõi và làm việc với các tổ chức tiền tệ quốc tế, ông Lê Văn Châu được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đề nghị Chính phủ cử làm Giám đốc điều hành phụ khuyết tại Ngân hàng Thế giới.
Với việc trở thành đại diện cho Ngân hàng Nhà nước làm việc tại Mỹ, ông Lê Văn Châu đã có cơ hội để đọc, tìm hiểu, lắng nghe và trực tiếp chứng kiến nền kinh tế Mỹ giai đoạn đó. Trong một lần về nước, ông Châu tham dự buổi họp với các đồng chí lãnh đạo và báo cáo đầy đủ cách thức vận hành nền kinh tế và thị trường vốn của Mỹ, hoạt động huy động vốn qua phát hành trái phiếu Chính phủ, thị trường chứng khoán – kênh huy động vốn quan trọng bậc nhất của nền kinh tế và doanh nghiệp Mỹ.
Buổi báo cáo kéo dài tới tận 22 giờ đêm, ông Châu sau đó vội vàng lên máy bay sang Mỹ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, trong khi các Lãnh đạo tiếp tục họp lại. Cũng từ đó, việc manh nha tư tưởng xây dựng thị trường vốn, tiến tới là thị trường chứng khoán Việt Nam đã bắt đầu nảy sinh trong các nhà lãnh đạo hàng đầu đất nước. Đó là sự chuyển biến từ nhận thức đến hoạch định chính sách trong công cuộc đổi mới, mang tính bước ngoặt nhưng bao hàm không ít trở ngại, khó khăn của giai đoạn đặt nền móng ban đầu.
Thực tế, vào thập niên 1990, Việt Nam giống như một con tàu vừa vượt qua cơn bão kinh tế, chuyển mình mạnh mẽ dưới ngọn cờ đổi mới. Tuy nhiên, ý tưởng thành lập thị trường chứng khoán đối mặt với nhiều hoài nghi. Nhiều người cho rằng đây là một lĩnh vực quá mới mẻ, ví von như “chui vào bụi rậm” đầy rủi ro cộng thêm lo ngại gắn liền với hai chữ “Tư bản”. Doanh nghiệp hầu như “mơ hồ” với các khái niệm cổ phiếu, cổ phần, cổ tức, nhà đầu tư thiếu kiến thức và cả nước thiếu nhân sự chuyên môn hay khung pháp lý phù hợp.
TS Lê Văn Châu đứng trước một lựa chọn có hay không dấn thân vào một con đường chưa từng có tiền lệ ở Việt Nam – Uỷ ban Chứng khoán Nhà Nước. Gia đình và đồng nghiệp lo lắng, nhiều người khuyên ông nên ở lại Ngân hàng Nhà Nước với vị trí Phó Thống đốc thay vì chuyển sang lĩnh vực chứng khoán với tính chất mới mẻ và đầy rủi ro.
Vậy nhưng, ông Châu tin rằng thị trường chứng khoán sẽ đặt nền móng cho sự phát triển kinh tế thị trường, bởi con đường của đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là tất yếu.
Để khẳng định vị thế của cơ quan mới, ông Châu đề xuất đặt tên là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), thay vì các tên gọi khác như Ủy ban Chứng khoán Việt Nam hay Ủy ban Chứng khoán Quốc gia. Tên gọi này nhấn mạnh sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với lĩnh vực chứng khoán. Ông cũng kiến nghị UBCKNN trực thuộc Chính phủ trong thời kỳ đầu xây dựng và phát triển, bởi giai đoạn này cần sự ưu tiên, tập trung cao độ để thúc đẩy việc hình thành thị trường chứng khoán, cần những quyết sách nhanh, đủ mạnh từ việc xây dựng mô hình, hệ thống văn bản pháp lý, vấn đề cơ cấu bộ máy nhân sự, cơ sở vật chất, kỹ thuật…
Đề xuất của ông được sự đồng thuận nên ngay từ thời kỳ đầu và kéo dài 8 năm sau đó, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trực thuộc Chính phủ. Nền móng cơ bản cho một thị trường chứng khoán phát triển hàng chục năm sau đó cũng đã được xây dựng trong giai đoạn này.
Cho đến năm 1996, vẫn có nhiều người lo lắng, băn khoăn có nên ra đời Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước hay không do tình hình kinh tế chưa thuận. Tuy nhiên, ông Châu kiên định rằng năm 1996 là thời điểm phù hợp, bởi đất nước đã đi được trọn một thập kỷ đổi mới dưới ngọn cờ của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế đã bước qua thời kỳ khó khăn nhất để đạt được những thành tựu quan trọng. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển ngày càng mạnh, tạo điều kiện thuận lợi đưa đất nước bước vào thời kỳ mới công nghiệp hoá và hiện đại hoá, tạo tiền đề để xây dựng thị trường chứng khoán – kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư, phát triển kinh tế đất nước.
Những ngày đầu khi Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước được thành lập, TS Lê Văn Châu bắt đầu từ những điều cơ bản nhất chính là xây dựng đội ngũ nhân sự. Quan điểm đưa ra xác định chứng khoán là ngành mới do đó cần tuyển những cán bộ trẻ có trình độ tài chính, ngân hàng và kinh tế vĩ mô, những người có năng lực công tác và khả năng cống hiến lâu dài. Sau khi xem xét, ông Châu bàn với lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước xin tiếp nhận toàn bộ Ban nghiên cứu thị trường vốn, đồng thời tiếp nhận một số lãnh đạo cấp Vụ, Cục của Ngân hàng Nhà nước về làm nòng cốt xây dựng bộ máy Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
Tới ngày 28/11/1996, Nghị định 75/1996/NĐ-CP ra đời, chính thức thành lập Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Đội ngũ nhân sự gồm 42 người từ Ban Nghiên cứu thị trường vốn (Ngân hàng Nhà nước) và 24 cán bộ từ Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước. Đây hầu hết đều là những người chưa từng làm việc với chứng khoán, đứng trước một lĩnh vực mà ngay cả sách vở cũng không đủ để hướng dẫn, tạo ra một rào cản lớn. Chính vì vậy, quá trình xây dựng đội ngũ tiếp tục diễn ra sau đó với tiêu chí nhân sự phải có trình độ cao và hiểu biết rộng.
Đồng thời, ông Châu cùng tập thể lãnh đạo Ủy ban cũng trình Thủ tướng Chính phủ cho cán bộ được hưởng ba lần lương cơ bản nhằm động viên, khích lệ đội ngũ nhân sự đầu tiên thành lập ngành. Từ năm 1997 đến năm 2000, trên tiêu chí tuyển dụng với yêu cầu cao về trình bộ, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã dần xây dựng đội ngũ lên trên 200 người, hầu hết được cử đi học và khảo sát tại nhiều quốc gia và một số tổ chức quốc tế để cập nhật kiến thức. Bộ máy ấy đã từng bước phát triển vững vàng về cả số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu phát triển của TTCK Việt Nam.
Trong quãng thời gian đầu thành lập, hợp tác quốc tế trở thành chiếc phao cứu sinh để xây dựng năng lực cho UBCKNN. Hàn Quốc tài trợ 2 triệu USD, cung cấp 30 máy tính chuyên dụng để đào tạo giao dịch giả định, giúp cán bộ làm quen với các quy trình của thị trường chứng khoán. Thái Lan hỗ trợ công nghệ và máy chủ, Đài Loan cung cấp bảng giá. Nhật Bản tổ chức các khóa học kéo dài 3 tháng, mang lại kiến thức chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ.
Ngoài cung cấp thiết bị chuyên dụng, các chuyên gia từ các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức đến Việt Nam để hướng dẫn tận tình, “cầm tay chỉ việc”, đảm bảo cán bộ UBCKNN học hỏi được từ các thị trường phát triển. Tháng 12/1997, ông Châu trình Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ thành lập Trung tâm Nghiên cứu khoa học và Đào tạo chứng khoán, đặt nền móng cho hoạt động đào tạo dài hạn. Công tác thông tin tuyên truyền cũng được thực hiện kịp thời khi số Tạp chí Chứng khoán số đầu tiên xuất bản vào tháng 8/1997, được ví như một ngọn lửa nhỏ thắp lên nhận thức về chứng khoán tại Việt Nam.
Cũng theo chia sẻ TS Lê Văn Châu thuật lại, năm 1997, ông từng có cơ hội quay lại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để trở thành Thống đốc. Tuy nhiên, ông từ chối với lý do UBCKNN mới vận hành chưa đầy một năm. Nếu ông rời đi, đội ngũ trẻ vừa xây dựng sẽ rất dễ lung lay. Kể điều này để thấy quyết định ở lại và sự tận tâm với sứ mệnh xây dựng ngành chứng khoán của ông Châu.
Hành trình gây dựng thị trường chứng khoán được ông Châu cùng đội ngũ cán bộ bồi đắp bằng những thủ tục từ cơ bản nhất đến phức tạp nhất. Khuôn khổ pháp lý ban đầu được dự kiến sẽ là pháp lệnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, điểm đặc thù của nước ta là một lĩnh vực mới thường được triển khai bằng một nghị định của Chính phủ trước khi tiến hành xây dựng Luật. Do đó, tháng 7/1998, Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán được ban hành, quy định việc phát hành chứng khoán ra công chúng, giao dịch chứng khoán và các dịch vụ liên quan trên lãnh thổ Việt Nam.
Sự trợ giúp của bạn bè quốc tế cũng giúp định hình về mô hình và lộ trình phù hợp. Ông Châu và đội ngũ UBCKNN đã mời được Công ty tài chính quốc tế (IFC) thuộc nhóm WB giúp đỡ xây dựng hệ thống văn bản pháp lý. IFC đã cử một số chuyên gia cùng UBCKNN khởi tạo, xây dựng Pháp lệnh cho thị trường chứng khoán Việt Nam, sau này làm nền tảng ra đời Nghị định. Trong thời gian soạn thảo Pháp lệnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán, IFC đã tổ chức rất nhiều khoá đào tạo, tập huấn cho cán bộ ngành Tài chính và Ngân hàng tại Việt Nam và nước ngoài. Ông nói, không có lựa chọn nào khác ngoài việc “vừa làm vừa học”, vừa điều chỉnh vừa cập nhật theo kinh nghiệm các nước đi trước.
Quá trình “tìm nhà” cũng là cả một câu chuyện dài với nhiều kỷ niệm. Về trụ sở UBCKNN, ông Châu đề xuất lấy tòa nhà 164 Trần Quang Khải, trước đây thuộc Bộ Thủy lợi. Tuy nhiên, do Bộ này chưa bàn giao ngay dẫn tới trụ sở ban đầu của UBCKNN chỉ là hai tầng thuê tạm tại tòa nhà Tung Shing với chi phí 300 triệu đồng/tháng – một khoản tiền không nhỏ thời bấy giờ. Sau nhiều lần đàm phán, với sự can thiệp của Văn phòng Chính phủ, tòa nhà 164 Trần Quang Khải cuối cùng được bàn giao, trở thành trụ sở chính thức của UBCKNN.
Tới khi thị trường chứng khoán sắp ra đời, việc lo trụ sở cho Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (nay là HOSE) cũng là một vấn đề cấp bách. Ban đầu, Văn phòng Chính phủ giao toà nhà 7 tầng tại số 9 đường Lê Duẩn để lập trụ sở. Tuy nhiên, ông Châu nhận thấy địa điểm này khó đáp ứng được yêu cầu về lâu dài. Đó là một tòa nhà chỉ phù hợp làm văn phòng, không thích hợp để làm sàn chứng khoán.
Vậy nên trong chuyến đi đến nhà Thủ tướng Võ Văn Kiệt tại TP.HCM, ông Châu đề xuất lấy trụ sở Thượng viện cũ ở bến Chương Dương làm trụ sở Trung tâm Giao dịch. Ông Châu lý giải rằng vị trí này nằm trên trục đường có nhiều ngân hàng, phù hợp để xây dựng một trung tâm tài chính. Thủ tướng đồng ý và chỉ ít ngày sau đã có quyết định bàn giao. Đồng thời, Chính phủ cấp luôn 50 tỷ đồng làm công tác giải tỏa vì có 7 cơ quan đang làm việc thời điểm đó, giúp Trung tâm Giao dịch nhanh chóng hình thành.
Sau này, việc tìm đất xây dựng trụ sở cho Trung tâm GDCK Hà Nội (nay là HNX) cũng thuận lợi tương tự như tìm đất làm trụ sở cho HOSE nhờ sự ủng hộ mạnh mẽ của lãnh đạo Chính phủ, UBND TP. Hà Nội. Điều này giúp ngành chứng khoán Việt Nam có hệ thống cơ sở vật chất hiện đại, với những vị trí “đắc địa” đặt trụ sở.
Vậy nhưng, thuyết phục doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu mới là một trong những thách thức lớn nhất. Khi đó, bối cảnh kinh tế toàn cầu khó khăn, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 càng làm tăng thêm thách thức. Ngay cả các quỹ đầu tư ngoại cũng phải chịu thua lỗ hoặc rút khỏi Việt Nam. Điều này khiến việc thu hút doanh nghiệp niêm yết càng trở nên gian nan.
Từ thực tế đó, ông Châu cùng ban lãnh đạo Uỷ ban muốn xây dựng một kế hoạch vừa phục vụ nhiệm vụ khai trương thị trường trước mắt, vừa mang tính chất “nuôi sống” thị trường lâu dài. Ông Châu vừa là nhà hoạch định chính sách, vừa là người đi gõ cửa từng bộ ngành để làm việc, vừa là giảng viên “truyền giáo” về khái niệm cổ phần, niêm yết, công bố thông tin… Một lần, tại một tổng công ty nhà nước lớn, vị Chủ tịch HĐQT thẳng thừng: “Tội gì lên sàn chứng khoán để rồi phải minh bạch cho phiền phức?”
Vụ trưởng Vũ Thị Kim Liên (sau này là Phó Chủ tịch UBCKNN), một nhân viên thân cận của ông Châu từng kể về một lần thuyết trình hàng giờ về lợi ích của thị trường chứng khoán. Một giám đốc doanh nghiệp nghe xong đã rất thật lòng bình luận: “Nghe chị nói thì thị trường chứng khoán đúng là rất hấp dẫn, nhưng khi cả nền kinh tế đang tù mù mà chị bảo tôi ra niêm yết, phải công khai, minh bạch, khác nào bảo tôi nhảy ra ánh sáng để thiên hạ soi mói”. Nhiều doanh nghiệp từ chối thẳng thừng hoặc chỉ trả lời “sẽ cân nhắc”, không hơn.
Những khó khăn này khiến số lượng doanh nghiệp đồng ý niêm yết giảm mạnh. Đến đầu năm 2000, từ 14 doanh nghiệp ban đầu dự kiến niêm yết, tụt xuống chỉ còn 2 doanh nghiệp, ông Lê Văn Châu lúc đó không còn giữ vị trí Chủ tịch UBCKNN mà lui về vị trí Cố vấn cao cấp. Nhưng ngay cả khi không còn giữ vị trí chính thức ở UBCKNN, ông Châu vẫn sát cánh cùng đội ngũ của mình không ngừng thúc đẩy mạnh mẽ cho sự ra đời của TTCK Việt Nam.
UBCKNN liên tục phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước tổ chức nhiều cuộc họp, hội thảo nhằm giải thích lợi ích của hoạt động niêm yết, làm việc với các bộ ngành để tháo gỡ vướng mắc. Mỗi cuộc gặp là một cơ hội để thay đổi tư duy, dù chỉ một chút từ đó đưa doanh nghiệp đến gần hơn với thị trường chứng khoán.
Sau gần 4 năm chuẩn bị, ngày 20/7/2000, Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM đã chính thức khai trương, với 2 mã cổ phiếu đầu tiên là Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (REE) và Công ty Cổ phần Cáp – Vật liệu viễn thông (SAM), tổng vốn hóa đạt 400 tỷ đồng. Đây là một dấu mốc lịch sử, nhưng đằng sau ánh hào quang là những ngày tháng căng thẳng.
Một số ý kiến đề xuất lùi ngày khai trương TTCK do thiếu doanh nghiệp tham gia, nhưng các lãnh đạo cấp cao của UBCKNN vẫn quyết tâm mở cửa. Sự hỗ trợ từ Thái Lan với hệ thống giao dịch và FPT với hệ thống lưu ký, thanh toán đã giúp phiên giao dịch đầu tiên diễn ra thành công. Trong thâm tâm, ông Châu luôn cảm ơn sâu sắc những thành viên ban đầu của thị trường, các công ty niêm yết, công ty chứng khoán, quản lý quỹ và 2.900 nhà đầu tư – những người chung tay đặt nền móng cho thị trường chứng khoán Việt Nam trong buổi đầu trứng nước với muôn vàn gian khó.
Tuy nhiên, khó khăn vẫn chưa dừng lại. Giai đoạn đầu, thanh khoản thị trường rất thấp, số lượng công ty niêm yết ít, cơ chế giao dịch thủ công, công nghệ lạc hậu, nhà đầu tư thiếu thông tin. UBCKNN phải liên tục điều chỉnh, cập nhật, học hỏi từ các nước đi trước. Các quy trình giao dịch được tinh chỉnh, các hướng dẫn cho doanh nghiệp và nhà đầu tư được cập nhật liên tục.
UBCKNN cũng tăng cường làm việc với các cơ quan như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, để tháo gỡ các rào cản pháp lý và hành chính. Mỗi bước tiến, dù nhỏ, đều là kết quả của sự kiên trì và quyết tâm không ngừng nghỉ.
Ông Lê Văn Châu chia sẻ, thị trường chứng khoán không thể lớn mạnh chỉ trong một sớm một chiều mà cần thời gian, cần sự đồng lòng. Với việc thị trường chính thức đi vào giao dịch ngày 28/7/2000, ông Châu cho rằng đó cũng là một chiến thắng của tư duy cải cách.
Sự phát triển của thị trường không chỉ nằm ở con số tăng điểm, mà là sự thay đổi trong tư duy của doanh nghiệp và nhà đầu tư. Theo ông, phát triển thành công thị trường chứng khoán nhưng mỗi thành viên trong thị trường đều phải trân quý những đồng vốn huy động được, trân trọng những thành quả phát triển kinh tế đất nước, phụng sự sự nghiệp chăm lo đời sống của nhân dân.
Sau hơn 25 năm, từ một mô hình sơ khai với vài cổ phiếu, đến nay thị trường chứng khoán Việt Nam có gần 1.700 doanh nghiệp đang giao dịch, tổng giá trị vốn hóa đạt gần 7,6 triệu tỷ đồng. Số tài khoản nhà đầu tư tăng từ 2.900 lên hơn 10 triệu, 54 doanh nghiệp niêm yết đạt quy mô trên 1 tỷ USD, và nhiều công ty đã vươn ra thị trường quốc tế. Hàng nghìn doanh nghiệp, hơn 10 triệu tài khoản nhà đầu tư, hàng tỷ USD vốn hóa thị trường.
Từ việc chỉ có thị trường giao dịch cổ phiếu phổ thông đơn thuần, thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng bước mở rộng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Những sản phẩm tài chính hiện đại như chứng quyền có bảo đảm, hợp đồng phái sinh đã lần lượt ra đời, đáp ứng nhu cầu phòng ngừa rủi ro và đa dạng hóa đầu tư của thị trường. Trong tương lai gần, thị trường sẽ tiếp tục đón nhận các mô hình giao dịch mới như thị trường carbon hay tài sản số. Đây đều là những xu hướng đang lan rộng toàn cầu, góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế bền vững.
TS Lê Văn Châu chưa từng nhận mình là “cha đẻ” thị trường chứng khoán, ông chỉ tự hào là người được giao nhiệm vụ “khai sơn phá thạch”, đặt nền móng cho một ngành kinh tế mới của đất nước và đã cố gắng hết sức để hoàn thành nó. Không chỉ vì ông đã lựa chọn tiếp tục đồng hành với thị trường chứng khoán non trẻ, mà còn vì điều ấy thể hiện một niềm tin kiên định vào con đường ông đã chọn. Khi nhìn lại, ông vẫn thấy tự hào khi thị trường chứng khoán đã trở thành một phần không thể thiếu của nền kinh tế Việt Nam.
Từ một ý tưởng bị hoài nghi, ông cùng với những đồng đội của mình biến giấc mơ TTCK – thể chế bậc cao của nền kinh tế thị trường, thành hiện thực. Cải cách không bao giờ dễ dàng, nhưng nếu không bắt đầu, sẽ không bao giờ tới đích. Di sản của Lê Văn Châu với TTCK không chỉ là những con số ấn tượng đã được hiện thực hoá, mà còn là thông điệp về quyết tâm và tầm nhìn, minh chứng rằng với sự kiên trì, Việt Nam có thể đạt được những mục tiêu lớn lao trên con đường phát triển.
Bài: Thái Hòa
Thiết kế: Hương Xuân
Nguồn: Theo Nhịp Sống Thị Trường – vietnamfinance.vn
Tham gia phiên thảo luận tại tọa đàm, ông Nguyễn Hữu Hùng – Phó chủ tịch Tập đoàn Đèo Cả nêu một loạt kiến nghị nhằm tạo dựng một môi trường phát triển lành mạnh, bền vững cho khu vực kinh tế tư nhân.
An Linh
Nguồn: vietnamfinance.vn
Nhiều chính sách thuế sẽ có hiệu lực từ 1/7, trong đó có các quy định ảnh hưởng sâu rộng đến nhóm 3,6 triệu hộ kinh doanh. Các chủ hộ lưu ý áp dụng, tránh bị phạt.
1. Chủ hộ kinh doanh thuộc đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc.
Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội 2024, từ 1/7 hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh sẽ chính thức thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc.
Tỷ lệ đóng BHXH bắt buộc của chủ hộ kinh doanh với mức đóng hàng tháng bằng 3% tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào quỹ ốm đau và thai sản, 22% tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào quỹ hưu trí và tử tuất, với mức đóng thấp nhất là 585.000 đồng/tháng, tuỳ theo mức thu nhập đăng ký làm căn cứ.
Trường hợp chủ hộ kinh doanh không đóng BHXH bắt buộc sẽ bị phạt tiền từ 18% đến 20% tổng số tiền phải đóng, từ 12% đến 15% tổng số tiền phải đóng đối với hành vi chậm đóng BHXH bắt buộc nhưng tối đa không quá 75 triệu đồng hoặc từ 50 – 75 triệu đồng nếu trốn đóng BHXH bắt buộc.
2. Chuyển đổi mã số thuế cá nhân sang số định danh cá nhân
Từ ngày 1/7, quy định tại Thông tư số 86 năm 2024 của Bộ Tài chính nêu rõ, số định danh cá nhân sẽ thay thế mã số thuế trong các giao dịch thuế đối với cá nhân, hộ gia đình, hộ kinh doanh. Mã số thuế cũ được sử dụng đến hết ngày 30/6.
Việc này giúp đồng bộ hóa dữ liệu dân cư với dữ liệu thuế, tạo nền tảng cho việc triển khai các chính sách thuế tự động và minh bạch hơn trong tương lai.
3. Xuất đơn đầu ra đầy đủ thông tin khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ đến tay người tiêu dùng.
Đối với người mua có mã số thuế kinh doanh (doanh nghiệp, hộ kinh doanh), hộ kinh doanh bán hàng cần xuất hóa đơn đầy đủ thông tin tên, địa chỉ, mã số thuế.
Đối với người mua là người tiêu dùng cá nhân, có thể xuất hóa đơn mà không cần đầy đủ thông tin bắt buộc như trên.
4. Sàn thương mại điện tử (TMĐT) có chức năng thanh toán phải khấu trừ và nộp thuế thay hộ, cá nhân kinh doanh.
Kể từ 1/7, các nền tảng TMĐT có chức năng thanh toán (dù trong hay ngoài nước) phải khấu trừ, kê khai và nộp thuế thay cho hộ và cá nhân kinh doanh bán hàng qua sàn theo quy định tại Nghị định số 117 năm 2025. Quy định này giúp cơ quan thuế kiểm soát hiệu quả hơn hoạt động kinh doanh online vốn đang phát triển nhanh chóng và tồn tại nhiều rủi ro, hành vi biến tướng tinh vi để trốn thuế.
5. Hộ cá nhân kinh doanh trên sàn không có chức năng thanh toán phải tự kê khai và nộp thuế.
Tại Nghị định số 117 cũng nêu rõ, nếu nền tảng TMĐT không có chức năng thanh toán, thì hộ kinh doanh và cá nhân phải tự thực hiện nghĩa vụ khai và nộp thuế. Đây là điểm cần lưu ý với các cá nhân bán hàng online hiện nay – không thể “phó mặc” cho nền tảng bán hàng online.
6. Thay đổi căn cứ xác định thuế khoán đối với hộ kinh doanh
Theo điều 13, thông tư số 40 năm 2021 của Bộ Tài chính (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 40 năm 2025), cơ sở xác định thuế khoán của hộ kinh doanh bổ sung thêm nội dung phản hồi từ các tổ chức, cá nhân có liên quan từ 1/7. Tổ chức, cá nhân này bao gồm Hội đồng tư vấn thuế, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc cấp xã, hộ khoán và các tổ chức, cá nhân khác.
Theo thống kê của cơ quan thuế hiện có 5,2 triệu hộ kinh doanh, nhưng số hộ cơ quan thuế quản lý là 3,6 triệu hộ thường xuyên (gồm hộ kê khai + hộ khoán). Còn lại là các trường hợp hộ kinh doanh không thường xuyên hoặc mùa vụ, hoá đơn cấp theo từng lần phát sinh.
Trong 3,6 triệu hộ này, thực tế số hộ đang hoạt động mà có đăng ký kinh doanh chỉ chiếm hơn 1 nửa, còn lại không có đăng ký kinh doanh, được cơ quan thuế cấp một mã số thuế riêng đưa vào quản lý thuế.
Hoàng Minh
Nguồn: vietnamfinance.vn
Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Thị Bích Ngọc, Việt Nam sẽ xây dựng chính sách thuế đảm bảo cạnh tranh với khu vực, nhưng cũng không muốn trở thành một “thiên đường về thuế” để thu hút các định chế tài chính.
Sáng 28/6 tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chủ trì cuộc tọa đàm với đại diện các doanh nghiệp Anh quốc đang đầu tư tại Việt Nam. Cùng dự Tọa đàm có Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Vương quốc Anh tại Việt Nam Ian Grant Frew và đại diện 25 doanh nghiệp Anh quốc đang đầu tư tại Việt Nam. Về phía Việt Nam có đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan liên quan.
Sau khi lắng nghe ý kiến các doanh nghiệp hàng đầu Anh quốc phát biểu, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Thị Bích Ngọc được mời phát biểu về những vấn đề mà doanh nghiệp quan tâm.
Thứ trưởng cho biết sau khi lắng nghe các ý kiến, có ba nhóm vấn đề liên quan đến trách nhiệm của Bộ Tài chính mà các doanh nghiệp Anh quốc quan tâm chia sẻ. Thứ nhất là về trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam; thứ hai là các chính sách thuế liên quan đến phát triển bền vững, ESG, thị trường carbon, và các tiêu chuẩn thương mại xanh; thứ ba liên quan đến thủ tục hải quan.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Thị Bích Ngọc phát biểu.
Về Trung tâm Tài chính Quốc tế, trước tiên, Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc trân trọng cảm ơn Ngài Đại sứ, cùng với Chính phủ Anh, trong thời gian vừa qua đã hỗ trợ Chính phủ Việt Nam và các cơ quan, trong đó có Bộ Tài chính trong việc xây dựng đề án thành lập Trung tâm Tài chính Quốc tế tại Việt Nam.
Theo đó, Việt Nam sẽ hướng đến phát triển một Trung tâm tài chính nhằm huy động nguồn lực quốc tế để phát triển ba trụ cột chính rất quan trọng, đó là kinh tế xanh, kinh tế số và đổi mới sáng tạo. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển Trung tâm tài chính quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Đồng thời vẫn duy trì các sản phẩm tài chính thông thường, đẩy mạnh các sản phẩm tài chính như xanh, ESG, và các loại khác.
Theo Thứ trưởng, ngày 27/6, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về việc phát triển Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam. Trong thời gian tới, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chính phủ, các bộ, ban, ngành có liên quan sẽ tiếp tục xây dựng 8 Nghị định để hướng dẫn triển khai. Các nội dung này rất quan trọng và mong muốn được Chính phủ Anh cùng cộng đồng doanh nghiệp tiếp tục đồng hành trong việc xây dựng các cơ chế, chính sách.
Về ý kiến cụ thể của các doanh nghiệp nêu liên quan đến ưu đãi dài hạn, trong dự thảo Nghị quyết đã có quy định ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân để phát triển các quỹ hưu trí tự nguyện và các quỹ khác. Trong quá trình xây dựng các Nghị định sắp tới, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục rà soát, kiến nghị các cấp có thẩm quyền xem xét và sửa đổi chính sách thuế cho phù hợp với chiến lược cải cách thuế đến năm 2030 và thông lệ quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh phát triển trung tâm tài chính, Việt Nam sẽ xây dựng chính sách thuế đảm bảo cạnh tranh với khu vực, nhưng cũng không muốn trở thành một “thiên đường về thuế” để thu hút các định chế tài chính.
“Tất cả các trung tâm tài chính quốc tế đều rất tránh việc xây dựng một “thiên đường về thuế” để thu hút các định chế tài chính về nước mình. Chúng tôi cũng làm tương tự”, Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc nhấn mạnh.
Về việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế, Thứ trưởng cho biết đây là nguyên tắc xuyên suốt trong chỉ đạo khi xây dựng và phát triển trung tâm tài chính. Đó là áp dụng các chuẩn mực quốc tế về IFRS, Basel, và ESG.
Về ưu đãi cho toàn hệ sinh thái, bên cạnh các cơ chế ưu đãi để thu hút các định chế tài chính, Việt Nam sẽ cố gắng hài hòa để phát triển hệ sinh thái đi kèm, bao gồm các công ty luật, tư vấn, kiểm toán. Nội dung này sẽ triển khai trong các nghị định.
Toàn cảnh cuộc toạ đàm
Về đề nghị rằng chính sách của trung tâm tài chính không nên chỉ bó hẹp ở TPHCM hay Đà Nẵng mà cần áp dụng rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam, Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết một cơ chế khung pháp lý được xác định rõ ràng là điều kiện tiên quyết. Với một thị trường, trung tâm tài chính mới nổi như Việt Nam cần những vị trí được xác định cụ thể để áp dụng khung pháp lý minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc áp dụng rộng rãi trên toàn quốc ngay tại thời điểm hiện nay rất khó có thể triển khai hiệu quả. Tuy nhiên, cũng hiểu rằng phải thiết lập một cơ chế để dòng vốn được hút vào trung tâm tài chính có thể chảy ra các phần còn lại của Việt Nam.
Về bộ tiêu chí của ESG, Thứ trưởng cho biết cho đến nay chưa có một bộ tiêu chuẩn ESG cụ thể đối với Việt Nam. Hiện nay, các yếu tố ESG được lồng ghép vào hệ thống pháp luật của Việt Nam, ví dụ như trong các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và các quy định liên quan đến ưu đãi thuế.
Về thị trường carbon, Thủ tướng Chính phủ vừa qua đã có quyết định phê duyệt đề án thành lập thị trường carbon. Theo đó, sẽ cố gắng hình thành thị trường này và làm sao để có tính kết nối, đồng bộ, và áp dụng các chuẩn mực quốc tế để thị trường carbon của Việt Nam có thể liên kết với các thị trường trên thế giới. Qua đó, chúng ta có thể điều phối các tín chỉ carbon và trao đổi giữa các thị trường.
Thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam đang được thực hiện thống nhất và thông quan tự động trên cơ sở xử lý rủi ro trên hệ thống tại 100% các đơn vị hải quan, với hơn 99,9% doanh nghiệp tham gia. Việc xử lý giấy tờ hải quan xử lý điện tử đã đáp ứng được khoảng 99,8%.
“Chúng tôi đồng ý với ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp rằng mặc dù đã làm trên hệ thống, nhưng hệ thống này xây dựng cũng đã khá lâu rồi. Hiện nay, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng, Bộ Tài chính đang khẩn trương nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin hải quan nhằm đảm bảo thông suốt và giảm thiểu sự cố. Chúng tôi sẽ tiếp tục triển khai phương pháp quản lý rủi ro hiệu quả hơn nữa để giảm thời gian cho nhà đầu tư và tăng cường sự rõ ràng trong việc phân loại hàng hóa”, Thứ trưởng cho biết.
Trong thời gian tới, Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc nhấn mạnh sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan để công nhận hồ sơ, chứng từ điện tử và chữ ký, thúc đẩy thương mại số và phi giấy tờ. Bộ Tài chính đã chỉ đạo quyết liệt hai ngành là Thuế và Hải quan đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin, công nhận lẫn nhau giữa các cơ quan trong nội bộ Việt Nam, nhằm giảm thiểu thủ tục và thời gian tuân thủ của doanh nghiệp.
Trần Nguyễn
Ảnh: VGP
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính giao Bộ Tài chính mời các tập đoàn công nghệ thông tin xây dựng phần mềm hỗ trợ các hộ kinh doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền.
Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản số 5883/VPCP – KTTH ngày 26/6/2025 truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính về kiểm tra các thông tin báo chí nêu theo tổng hợp của Cổng Thông tin điện tử Chính phủ về nội dung “Cần định nghĩa lại hộ kinh doanh trong bối cảnh mới để thu thuế hiệu quả”.
Văn bản nêu: Báo cáo số 556/2025/TTĐT ngày 23 tháng 6 năm 2025 của Cổng Thông tin điện tử Chính phủ về thông tin, báo chí và dư luận liên quan đến công tác chỉ đạo, điều hành có nội dung “Cần định nghĩa lại hộ kinh doanh trong bối cảnh mới để thu thuế hiệu quả” như sau: Theo các chuyên gia kinh tế, sự hoang mang của nhiều hộ kinh doanh sau khi Nghị định 70/2025/NĐ-CP có hiệu lực đã cho thấy khoảng trống lớn trong việc truyền thông chính sách. Giới chuyên gia cho rằng cách hiểu hộ kinh doanh đến nay đã lỗi thời; hiện chưa có bộ luật rõ ràng, đầy đủ và ổn định để định danh, phân loại và điều tiết hoạt động của nhóm kinh tế đặc thù này. Đã đến lúc cần định nghĩa lại khái niệm hộ kinh doanh và xây dựng chính sách phù hợp hơn với thực tiễn kinh tế số.
Trước thông tin trên, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã giao Bộ Tài chính kiểm tra các thông tin báo chí nêu theo tổng hợp của Cổng Thông tin điện tử Chính phủ về nội dung “Cần định nghĩa lại hộ kinh doanh trong bối cảnh mới để thu thuế hiệu quả”, chủ động xử lý theo quy định, báo cáo cấp có thẩm quyền đối với những vấn đề vượt thẩm quyền.
Đồng thời, tổ chức mời các tập đoàn công nghệ thông tin, Viettel, VNPT, Mobiphone, FPT, CMC, đại diện hộ kinh doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ để xây dựng phần mềm giúp đỡ hỗ trợ các hộ kinh doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền.
Thủ tướng giao Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc chỉ đạo thực hiện các nội dung trên.
Phương Nhi
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Chính phủ
Bà Đặng Thị Bình An – Chủ tịch Công ty TNHH Tư vấn thuế C&A thừa nhận, ngay cả người làm nghề chuyên môn cũng gặp khó khăn khi đọc và hiểu Nghị định 70. Tôi phải đến họp ở Cục Thuế, được giải thích trực tiếp mới hiểu rõ ai cần máy tính tiền, ai không.
Theo các chuyên gia kinh tế, sự hoang mang của nhiều hộ kinh doanh sau khi Nghị định 70/2025/NĐ-CP có hiệu lực đã cho thấy khoảng trống lớn trong việc truyền thông chính sách. Không ít tiểu thương lo sợ bị “siết thuế”, bị phạt do thiếu hóa đơn, trong khi phần lớn họ không thuộc diện bị ảnh hưởng.
Tại Tọa đàm “Hộ kinh doanh trước vấn nạn hàng giả và tuân thủ thuế”, bà Lê Thị Duyên Hải, Phó Tổng Thư ký Hội Tư vấn thuế Việt Nam cho biết, phần lớn tâm lý bất an này đến từ việc thiếu thông tin, hiểu sai quy định về hóa đơn điện tử, máy tính tiền và nghĩa vụ thuế.
“Có không ít người gọi điện hỏi tôi rằng họ chỉ bán rau ngoài chợ có cần máy tính tiền không, có bị đánh thêm thuế gì nữa không. Thực tế là họ không thuộc diện bắt buộc”, bà Duyên Hải cho biết.
Hiện chỉ có khoảng 31.000 hộ kinh doanh có doanh thu từ 1 tỷ đồng/năm trở lên, được xem là hộ khoán lớn nằm trong diện thí điểm áp dụng hóa đơn điện tử có mã xác thực của cơ quan thuế (tức phải dùng máy tính tiền). Trong số này, 16.000 hộ ở TP. Hồ Chí Minh, 9.000 hộ ở Hà Nội, phần còn lại tập trung ở một số đô thị lớn. Các hộ tại vùng sâu, vùng xa hoàn toàn không thuộc diện bị ảnh hưởng.
Trong nhiều năm qua, nhiều hộ sống trong vùng an toàn phi chính thức: không hóa đơn, không đăng ký, không bị kiểm tra an toàn thực phẩm hay phòng cháy chữa cháy. Hiện nay, khi môi trường kinh doanh thay đổi, vùng an toàn ấy bị lay động khiến họ lo sợ. Một số khác vì lo sợ nên đóng cửa hàng, đóng sạp bán…
“Chúng ta cần đẩy mạnh truyền thông đúng bản chất chính sách để tránh gây hoang mang cho các tiểu thương. Khi truyền thông chính sách cần nhấn mạnh chính sách đã có sự phân loại rõ ràng, dựa trên năng lực thực thi của từng nhóm hộ kinh doanh chứ không phải áp đồng nhất hay đại trà”, bà Duyên Hải nói.
Từng có 32 năm làm việc trong ngành thuế, bà Đặng Thị Bình An, Chủ tịch Công ty TNHH Tư vấn thuế C&A thừa nhận, ngay cả người làm nghề chuyên môn cũng gặp khó khăn khi đọc và hiểu Nghị định 70. Tôi phải đến họp ở Cục Thuế, được giải thích trực tiếp mới hiểu rõ ai cần máy tính tiền, ai không.
Theo bà Bình An, trước mắt, các cơ quan chức năng cần xây dựng tài liệu hướng dẫn đơn giản, sử dụng ngôn ngữ phổ thông, chia nhóm cụ thể để người dân dễ hiểu. Các thông tin này nên được phổ biến qua truyền hình, mạng xã hội, các hội nhóm ngành nghề… nhằm tránh tạo tâm lý bất ổn lan rộng như thời gian qua.
Đối với loại hàng hóa không có hóa đơn đầu vào, bà Bình An đề xuất thay vì xử phạt ngay nên cho phép người bán tự kiểm kê, phân loại đâu là hàng nội địa không hóa đơn (nhưng hợp pháp), đâu là hàng đáng nghi ngờ. Với hàng nội địa không có giấy tờ nhưng không vi phạm, có thể thu phí một lần hoặc áp dụng cơ chế quản lý tồn kho có điều kiện để vừa bảo vệ quyền lợi người bán, vừa tránh thất thu thuế.
“Đối với hàng giả, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ, nguyên tắc là cần xử lý nghiêm. Tuy nhiên, cần phân biệt giữa người sản xuất cố tình vi phạm và người bán lẻ không nhận thức được bản chất hàng hóa, tránh tình trạng đánh đồng và dồn trách nhiệm không công bằng với tiểu thương”, bà Bình An đề nghị.
TS. Võ Trí Thành – Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh, cho rằng, theo thống kê, hiện vẫn còn khoảng 2 triệu cá nhân kinh doanh không chính thức, chưa có hành lang pháp lý rõ ràng. Trong đó, có không ít trường hợp thực tế hoạt động với quy mô lớn hơn cả hộ kinh doanh truyền thống, nhưng lại nằm ngoài vùng phủ sóng quản lý.
“Xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng, thì việc minh bạch hóa thị trường là điều kiện tiên quyết để hộ kinh doanh phát triển bền vững, tránh bị rơi vào vùng rủi ro”, ông nhìn nhận.
Theo TS. Võ Trí Thành, cách hiểu về “hộ kinh doanh” ở Việt Nam hiện nay đang tụt hậu so với thực tiễn. Không thể mãi đồng nhất khái niệm này với những tiệm tạp hóa, quầy hàng vỉa hè, hay những cơ sở sản xuất nhỏ lẻ truyền thống.
Thực tế đã khác xa. Ngày nay, hộ kinh doanh không chỉ là người bán hàng ngoài chợ, mà là cả freelancer viết phần mềm, lập trình viên tự do làm việc xuyên biên giới, influencer kiếm tiền từ quảng cáo trực tuyến, người đào tiền số, thợ thủ công sáng tạo theo đơn đặt hàng online… Họ có khách hàng, có thu nhập đều đặn, có sức ảnh hưởng thị trường, nhưng lại “đứng ngoài vòng pháp lý”. Không đăng ký kinh doanh, không ghi sổ, không đóng thuế và cũng không thể tiếp cận bất kỳ sự hỗ trợ chính thức nào từ Nhà nước.
Theo quan điểm của ông Thành, đã đến lúc cần có một luật riêng cho hộ kinh doanh, không phải để siết chặt hay hình sự hóa, mà để “gọi tên đúng và dẫn dắt đúng”.
Hệ thống đó cần phân loại linh hoạt, dựa trên quy mô, tính chất hoạt động, và đặc điểm ngành nghề. Nếu không, nhóm này sẽ tiếp tục tồn tại dai dẳng trong vùng xám của nền kinh tế phi chính thức, vừa khiến Nhà nước thất thu, vừa khiến chính người lao động rơi vào trạng thái bất ổn – không được bảo vệ khi gặp rủi ro, không được công nhận khi cần vươn lên.
“Chúng ta không thể vận hành một nền kinh tế số hiện đại bằng tư duy quản lý của thời tiểu thương thế kỷ trước,” TS. Võ Trí Thành kết luận. Việc xây dựng hành lang pháp lý mới cho hộ kinh doanh không chỉ là một yêu cầu quản lý, mà là nền tảng để kiến tạo một xã hội minh bạch, bình đẳng và có khả năng chuyển đổi số thực sự.
Vị chuyên gia cho rằng, cơ quan thuế nên xây dựng một bảng phân loại ngắn gọn, dễ hiểu, thể hiện: Chúng ta đã làm gì, còn vướng gì, và cần làm gì tiếp theo. Bảng này không chỉ giúp cơ quan quản lý mà còn giúp xã hội hình dung rõ ràng hơn lộ trình chính sách đang đi đến đâu và vì sao.
Rất nhiều vấn đề đặt ra liên quan đến quy trình, thủ tục, cách xác định doanh thu, cách khoán, mức đóng thuế…song, ông Thành cho rằng, điều quan trọng nhất là phải nhìn rõ bản chất: Trong vài năm tới, thu thuế từ hộ kinh doanh không phải là mục tiêu chính yếu, kể cả về tỷ trọng ngân sách lẫn tác động vĩ mô.
“Cái cốt lõi nằm ở sự “tập dượt” để hộ kinh doanh quen với việc minh bạch hóa thu nhập, ghi sổ, kê khai và để Nhà nước học cách đồng hành, phân loại, hỗ trợ, không chỉ kiểm tra, xử phạt”, TS Võ Trí Thành nhận định.
Ông Thành kể lại một câu chuyện. Trước đây, khi bàn về thuế thu nhập cá nhân, có người nói: Tôi thu nhập 20 triệu nhưng còn phải nuôi con, nuôi mẹ già… phải giảm thuế cho tôi chứ. Câu nói này chạm đến một vấn đề thật nhưng xã hội chỉ thực sự văn minh khi người dân ý thức rõ trách nhiệm thuế, dù số tiền đóng có thể rất nhỏ.
Tiến tới đời con cháu chúng ta, ngay cả một người thu nhập chỉ 1 triệu, vẫn nên đóng 1.000 đồng mỗi tháng, không phải để ngân sách thêm dày, mà để tạo thói quen, tạo hành vi rằng: “Tôi là công dân, tôi có nghĩa vụ đóng góp”. Với hộ kinh doanh cũng vậy. Hãy để họ “tập đi” trước khi buộc họ “chạy”. Đừng đòi hỏi họ minh bạch, chuyên nghiệp như doanh nghiệp lớn ngay lập tức. Đó là một hành trình chuyển đổi 3 năm, 5 năm, thậm chí 10 hay 15 năm. Nhưng nếu ta không bắt đầu bây giờ, thì chẳng bao giờ tới đích.
“Tôi nghĩ, điều quan trọng là tư duy chính sách phải dịch chuyển từ “thu ngay” sang “huấn luyện dần”, từ “quản lý rủi ro” sang “kiến tạo niềm tin”. Khi ấy, họ mới lớn lên, xã hội mới lành mạnh, và thị trường mới vận hành đàng hoàng”, TS Thành nhìn nhận.
Kỳ Thư
Nguồn: vietnamfinance.vn
Việc chuyển đổi từ hình thức thuế khoán sang kê khai thuế theo Nghị định 70/2025/NĐ-CP là bước ngoặt quan trọng trong công tác quản lý thuế, nhằm hỗ trợ tối đa để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân.
Đại lý thuế chủ động hướng dẫn, trợ giúp các hộ kinh doanh
Với tinh thần đó, không chỉ riêng cơ quan thuế đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế mà bản thân các đại lý thuế thành viên Hội Tư vấn và Đại lý thuế TP. Hồ Chí Minh (HTCAA) cũng đã tích cực hưởng ứng, cùng đồng hành với các cơ quan thuế địa phương chủ động hướng dẫn, trợ giúp các HKD chấp hành đúng nghĩa vụ khai nộp thuế, áp dụng HĐĐT khởi tạo từ máy tính tiền khi bán hàng đến tay người tiêu dùng.
Trao đổi về vấn đề này, ông Trương Ngọc Đăng Khoa – Giám đốc điều hành Công ty TNHH Dịch vụ tư vấn và Đại lý thuế Trương Gia, cho biết: “Trong ngày 1/6/2025, Cục Thuế – Bộ Tài chính đã ban hành Công điện số 72/CĐ-CT gửi cơ quan thuế các cấp, trong đó có nội dung liên quan đến công tác triển khai và hỗ trợ người nộp thuế sử dụng HĐĐT khởi tạo từ máy tính tiền.
Điều này cho thấy ngành thuế rất quan tâm đến việc tuyên truyền, hỗ trợ và quyết liệt triển khai bỏ thuế khoán đối với HKD để tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế”.
Tuy nhiên, trong thực tế triển khai, nhiều HKD, cá nhân kinh doanh đã gặp không ít băn khoăn, lúng túng do trình độ công nghệ chưa thành thạo cũng như hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn chế; hơn nữa khi áp dụng HĐĐT khởi tạo từ máy tính tiền, sổ sách kế toán… sẽ phát sinh nhiều chi phí cũng phần nào ảnh hưởng đến tâm lý e ngại.
“Trước những bối rối của các HKD, Đại lý thuế Trương Gia đã nhiệt tình tham gia các hoạt động tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế, DN khởi nghiệp để giúp tuân thủ đúng pháp luật thuế. Đặc biệt gần đây, chúng tôi cũng nhanh chóng vào cuộc hỗ trợ các HKD chuyển đổi các hình thức kê khai nộp thuế, xuất HĐĐT khởi tạo từ máy tính tiền… theo đúng quy định của cơ quan thuế”, ông Khoa nêu rõ.
Hộ kinh doanh cần làm quen với phương thức kê khai nộp thuế điện tử
Còn theo ông Vòng Tắc Xiền – Giám đốc Công ty CP Tư vấn Trí Luật, để giảm thiểu những tác động đến tâm lý người nộp thuế, cơ quan thuế các địa phương cần thiết lập các đường dây nóng và cử người trực chiến tại cơ quan thuế, phường, trung tâm thương mại, ban quan lý chợ… nhằm kịp thời giải đáp, hỗ trợ xử lý và trấn an các tiểu thương mạnh dạn ứng dụng công nghệ, làm quen với phương thức kê khai nộp thuế điện tử.
Đối với Trí Luật, song song với việc cung cấp dịch vụ phục vụ khách hàng trong qua trình kê khai thuế, kế toán, tư vấn pháp lý DN, đại lý thuế này cũng thường xuyên gắn kết với các hội ngành nghề, hiệp hội DN và cơ quan thuế để tuyên truyền vận động HKD lên DN, hỗ trợ quyết toán thuế, hướng dẫn HKD khai thuế, thực hiện HĐĐT khởi tạo từ máy tính tiền cho hàng trăm HKD, giúp các cá nhân, HKD tuân thủ chính sách thuế, minh bạch khai nộp thuế.
Ngành thuế mới đây đã có công văn hướng dẫn các cá nhân và HKD có hoạt động bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ trực tiếp đến người tiêu dùng thuộc đối tượng quy định sử dụng HĐĐT khởi tạo từ máy tính tiền… “Có thể nói, nếu xác định thời điểm áp dụng là tính “từ thời điểm cơ quan thuế chấp nhận đăng ký sử dụng” cũng là một hướng tháo gỡ nhanh vướng mắc, giúp HKD tránh sai sót tại thời điểm 1/6/2025”, ông Xiền nhìn nhận.
Dưới góc nhìn hỗ trợ DN, ông Nguyễn Trung Hiếu, Phó Tổng giám đốc Công ty TNHH Tim Sen, cho hay: Nghị quyết 198/2025/QH15 của Quốc hội được thông qua đã cho thấy, các chính sách hỗ trợ thuế, phí, lệ phí cho DN, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh là bước đột phá mới của chính sách ưu đãi”.
Kể từ 1/1/2026, HKD, cá nhân kinh doanh không còn áp dụng phương pháp khoán thuế và cũng từ thời điểm này sẽ chấm dứt việc thu, nộp lệ phí môn bài. Rõ ràng, việc chuyển đổi từ hình thức thuế khoán sang kê khai thuế theo Nghị định 70/2025/NĐ-CP là bước ngoặt quan trọng trong công tác quản lý thuế, nhằm hỗ trợ tối đa để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân.
Dù ngành thuế đã thông báo đơn giản hóa chế độ sổ sách kế toán, hóa đơn, chứng từ để HKD có thể dễ dàng áp dụng, nhưng thực tế triển khai và quá trình hướng dẫn, hỗ trợ cho các HKD cũng không đơn giản. Nhiều tiểu thương đã không tránh khỏi lo âu, nhất là khi tiếp cận với các phần mềm kế toán, thiết bị in HĐĐT từ máy tính tiền, sổ sách kế toán, chứng từ đầu vào – đầu ra, chi phí tuân thủ thuế tăng cao… Nắm bắt được tâm tư đó, Đại lý thuế Tim Sen đã chủ động kết nối với các địa phương, cơ quan thuế tham gia tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế an tâm để cùng hưởng ứng, áp dụng HĐĐT từ máy tính tiền có kết nối với cơ quan thuế.
Anh Phạm
Nguồn: tapchitaichinh.vn
Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội về phát triển kinh tế tư nhân và một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân đã được ban hành trong tháng 5 vừa qua. Đây là hai Nghị quyết mang tính đột phá nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân và hỗ trợ thực chất, hiệu quả đối với các doanh nghiệp, hộ kinh doanh…
Dưới đây là ý kiến của các đại lý thuế – thành viên của Hội Tư vấn và Đại lý thuế TP. Hồ Chí Minh (HTCAA), chia sẻ với phóng viên Tạp chí Kinh tế – Tài chính về cơ hội lớn, vận hội phát triển mới theo tinh thần các quyết sách của Đảng, Quốc Hội, Chính phủ trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Ông Vòng Tắc Xiền – Giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn Trí Luật: Nghị quyết 68 được kỳ vọng mang “lộc phát” cho khu vực kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân đã phát triển cả về số lượng và chất lượng qua gần 40 năm đổi mới, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế. Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân có gần 950.000 doanh nghiệp (DN) và khoảng 5 triệu hộ kinh doanh (HKD) đang hoạt động, chiếm khoảng 50% GDP, đóng góp hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước…
Nhiều DN tư nhân đã khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường thế giới. Dù vậy, thực tế vẫn còn nhiều DN gặp khó khăn, nhất là một số chính sách hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả, chi phí kinh doanh còn cao và quy định pháp luật thuế đối với DN cũng như HKD còn không ít vướng mắc.
Nay những tâm tư đó đã được giải tỏa bằng Nghị quyết 68 được coi là “lộc phát” cho cộng đồng DN và hướng đến các mục tiêu năm 2030 đạt 2 triệu DN, phấn đấu đến năm 2045 có ít nhất 3 triệu DN, đóng góp khoảng trên 60% GDP và các DN đạt trình độ, công nghệ có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực cũng như trên trường quốc tế.
Với tầm nhìn trở thành đại lý thuế hàng đầu tại Việt Nam, chuyên cung cấp dịch vụ tư vấn, kế toán – thuế, pháp lý hữu ích, chất lượng nhất cho DN, Trí Luật luôn chú trọng tinh thần hợp tác cùng phát triển, tạo giá trị thặng dư gia tăng cho các khách hàng và đối tác. Với những nỗ lực đó, chúng tôi cam kết đồng hành cùng sự phát triển của khách hàng và sự lớn mạnh của cộng đồng DN Việt Nam.
Ông Nguyễn Trung Hiếu – Phó Tổng giám đốc Công ty TNHH Tim Sen: Tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp chuyển đổi số, chuyển đổi xanh
Nghị quyết số 68-NQ/TW là động lực mới, là đòn bẩy hữu hiệu thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Theo tôi, nhà nước cần tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận các nguồn lực về đất đai, vốn và có chính sách hỗ trợ cho DN nhỏ, DN công nghiệp hỗ trợ, DN đổi mới sáng tạo, đặc biệt là các DN siêu nhỏ, HKD dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ưu đãi để tăng tốc chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, tuân thủ đúng chính sách, pháp luật và nộp thuế tốt.
Trong xu thế hội nhập và phát triển, các DN cần phải thay đổi, luôn cập nhật quy định pháp luật, đặc biệt là chính sách thuế để nắm bắt kịp thời, tuân thủ đúng nhằm hạn chế tối đa các rủi ro sai phạm về thuế, chế độ kế toán.
Với những nỗ lực đó, nhiều năm qua, Tim Sen luôn tận tâm phục vụ khách hàng bằng cả trái tim, đem đến cho khách hàng sự an tâm với phương châm: “Điểm tựa cho khởi đầu – Hài hòa cùng thịnh vượng”. Chúng tôi rất tự hào là đơn vị có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ thuế, kế toán cho gần 2.000 DN khách hàng trên cả nước.
Tôi nghĩ, khi niềm tin được khẳng định và được khích lệ đúng mức, chắc chắn rằng mọi nguồn lực sẽ nhanh chóng được khơi thông để cùng chung sức, chung lòng tạo nên một kỳ tích mới, một Việt Nam thịnh vượng trong kỷ nguyên mới.
Ông Trương Ngọc Đăng Khoa – Giám đốc điều hành Công ty TNHH Dịch vụ tư vấn và Đại lý thuế Trương Gia: Gia tăng số lượng doanh nghiệp sẽ tạo nhu cầu lớn về dịch vụ kế toán, thuế
Kỳ vọng các Nghị quyết mới ban hành sẽ thúc đẩy hoàn thiện khung pháp lý cho các mô hình kinh tế mới, kinh doanh dựa trên công nghệ và nền tảng số, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, thương mại điện tử.
Trong bối cảnh hiện nay, các DN, HKD cũng rất mong nhà nước và các bộ ngành sớm hoàn thiện khung khổ pháp lý về kinh doanh cá thể, khuyến khích HKD chuyển lên DN; tạo điều kiện đẩy mạnh số hoá, đơn giản hoá thủ tục về chế độ kế toán, khai nộp thuế, bảo hiểm xã hội… nhằm hạn chế các sai sót cho người nộp thuế.
Với sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng DN sẽ kéo theo nhu cầu lớn về các dịch vụ hỗ trợ, công nghiệp phụ trợ, trong đó có dịch vụ chuyên nghiệp về kế toán và tư vấn thuế. Từ nhiều năm qua, Đại lý thuế Trương Gia đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro pháp lý cho DN, đặc biệc là đối với các DN vừa và nhỏ, DN mới thành lập, HKD chuyển lên DN.
Cùng với đó, bằng kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn sâu rộng, ứng dụng công nghệ vào hỗ trợ người nộp thuế, Trương Gia tự tin sẽ là nhịp cầu nối tuyệt vời giữa cộng đồng DN với cơ quan thuế.
Là một doanh nhân trẻ, chúng tôi rất mong được cùng đóng góp xây dựng đội ngũ doanh nhân có văn hoá kinh doanh, trách nhiệm xã hội, thượng tôn pháp luật và luôn mang trong mình khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, hùng cường, thịnh vượng.
Anh Phạm
Nguồn: tapchitaichinh.vn