Bộ Tài chính đề xuất thêm phương án giảm mức truy thu tiền sử dụng đất xuống 3,6%/năm thay vì 5,4%/năm hoặc bỏ hoàn toàn quy định truy thu bổ sung.
Bộ Tài chính vừa trình thêm hai phương án mới liên quan đến quy định truy thu tiền sử dụng đất, trong dự thảo sửa đổi Nghị định 103 về tiền sử dụng đất và tiền thuê đất.
Theo dự thảo này, ngoài phương án giữ nguyên khoản thu bổ sung 5,4% trên số tiền sử dụng đất phải nộp (như dự thảo lần trước và quy định hiện hành), Bộ Tài chính đã thêm hai phương án khác.
Phương án thứ nhất là bỏ hoàn toàn quy định về khoản thu bổ sung tiền sử dụng đất, giao Chính phủ xem xét tại quá trình sửa đổi Luật Đất đai 2024, bởi đây là vấn đề nhạy cảm, phức tạp và có ảnh hưởng lớn đến cả ngân sách nhà nước lẫn hoạt động của doanh nghiệp.
Phương án 2 là giữ quy định thu bổ sung nhưng điều chỉnh giảm mức truy thu từ 5,4% xuống còn 3,6% mỗi năm, được tính toán dựa trên trung bình cộng của 3 chỉ số: lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1-6 tháng, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và tỷ lệ lạm phát trung bình trong giai đoạn 2014-2024.
Theo Bộ Tài chính, việc điều chỉnh theo hai phương án xử lý khoản thu bổ sung tiền sử dụng đất, nội dung từng gây tranh cãi thời gian qua, giúp hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và người sử dụng đất.
Dự thảo cũ của Bộ Tài chính đề xuất mức truy thu 5,4%/năm tính trên số tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất phải nộp trong thời gian chưa xác định nghĩa vụ tài chính. Nhưng đề xuất này đã vấp phải nhiều ý kiến phản đối từ cộng đồng doanh nghiệp và các hiệp hội, cho rằng mức truy thu chưa phản ánh đúng thực tế, gây áp lực tài chính không nhỏ trong bối cảnh thị trường bất động sản đang cần phục hồi. Một số địa phương cũng lên tiếng kiến nghị cần điều chỉnh giảm mức thu để tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định sản xuất.
Trước đó, Hiệp hội Bất động sản TPHCM (HoREA) cũng đề xuất bỏ quy định truy thu tiền sử dụng đất với giai đoạn chậm xác định trước ngày 1/8/2024, thời điểm Luật Đất đai 2024 có hiệu lực. HoREA kiến nghị trừ đi 180 ngày, tương ứng thời hạn tối đa UBND cấp tỉnh được phép ban hành giá đất, khỏi thời gian tính truy thu để đảm bảo công bằng cho doanh nghiệp.
Theo HoREA, nghĩa vụ tài chính chỉ nên phát sinh sau khi có thông báo của cơ quan thuế, việc hồi tố từ thời điểm giao đất sẽ tạo ra gánh nặng không đáng có. Ngoài ra, phần lớn các trường hợp chậm nghĩa vụ tài chính là do vướng mắc từ phía cơ quan quản lý, không phải lỗi của doanh nghiệp và không nên bắt doanh nghiệp gánh khoản thu này.
HoREA cũng lưu ý tiền sử dụng đất thực chất là một khoản đầu tư trả trước được tính vào giá bán. Nếu truy thu bổ sung, chi phí sẽ bị đẩy sang người tiêu dùng, làm giảm khả năng tiếp cận nhà ở và gây lệch pha cung – cầu trên thị trường.
Mai Anh
Nguồn: vietnamfinance.vn
Cục Thuế – Bộ Tài chính đã ban hành Công văn số 2346/CT-CS ngày 9/7/2025 về chính sách thuế đối với cơ sở giáo dục (CSGD) công lập, trả lời các vướng mắc tại Công văn số 12350/CTHN-TTKT3 ngày 4/3/2025 của Cục Thuế TP Hà Nội (nay là Thuế thành phố Hà Nội).
Nguồn: https://www.gdt.gov.vn
Bộ Tài chính đang dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Bộ Tài chính cho biết, ngày 14/6/2025, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) số 67/2025/QH15 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/10/2025 và áp dụng từ kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025.
Tại Luật Thuế TNDN, Quốc hội giao Chính phủ quy định chi tiết một số khoản, điều và nội dung của Luật, cụ thể: về người nộp thuế (Điều 2); thu nhập chịu thuế (Điều 3); thu nhập được miễn thuế (Điều 4); doanh thu (Điều 8); các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế, bao gồm cả mức chi bổ sung, điều kiện, thời gian và phạm vi áp dụng đối với khoản chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp (Điều 9); xác định tiêu chí tổng doanh thu làm căn cứ xác định đối tượng thuộc diện áp dụng thuế suất 17% và 15% tại khoản 2 và 3 Điều 10; số thuế TNDN phải nộp tính theo tỷ lệ % trên doanh thu (Điều 11); ngành, nghề, địa bàn ưu đãi thuế TNDN và việc áp dụng ưu đãi thuế TNDN trong một số trường hợp (khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 12); thuế suất ưu đãi, thời gian miễn giảm thuế dự án đầu tư mới, dự án đầu tư mở rộng, các trường hợp miễn, giảm thuế khác, chuyển lỗ và điều kiện áp dụng ưu đãi thuế (khoản 1 Điều 13; khoản 6 Điều 14; Điều 15; Điều 16; khoản 1, khoản 3 và khoản 5 Điều 18; khoản 3 Điều 19).
Bên cạnh đó, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước trong việc sắp xếp đơn vị hành chính ở địa phương, về phân cấp, phân quyền, cần thiết phải rà soát các quy định thuộc thẩm quyền của Chính phủ, của các Bộ về thuế TNDN đảm bảo cho việc thực hiện thông suốt, không phát sinh vướng mắc.
Theo Bộ Tài chính, Điều 2 Luật Thuế TNDN giao Chính phủ quy định chi tiết Điều này. Để thống nhất với pháp luật quản lý thuế, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Chứng khoán và trên cơ sở kế thừa các quy định đang thực hiện ổn định, Bộ Tài chính đề xuất quy định chi tiết về người nộp thuế tại Điều 2 dự thảo Nghị định như sau:
Người nộp thuế theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm:
a) Doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Chứng khoán, Luật Dầu khí, Luật Thương mại và quy định tại các văn bản pháp luật khác dưới các hình thức như: Công ty cổ phần; công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty hợp danh; công ty quản lý quỹ; doanh nghiệp tư nhân; các bên trong hợp đồng hợp tác kinh doanh; các bên trong hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí, xí nghiệp liên doanh dầu khí, công ty điều hành chung.
b) Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam.
c) Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngoài (sau đây gọi là doanh nghiệp nước ngoài) có cơ sở thường trú hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam
Doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú đó.
Doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam mà khoản thu nhập này không liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú.
Doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, bao gồm cả các doanh nghiệp kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng công nghệ số, nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam.
Cơ sở thường trú của doanh nghiệp nước ngoài là cơ sở sản xuất, kinh doanh mà thông qua cơ sở này, doanh nghiệp nước ngoài tiến hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam, bao gồm:
– Chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, công xưởng, phương tiện vận tải, mỏ dầu, mỏ khí, mỏ hoặc địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên khác tại Việt Nam.
– Địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp.
– Cơ sở cung cấp dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người làm công hoặc tổ chức, cá nhân khác.
– Đại lý cho doanh nghiệp nước ngoài.
– Đại diện tại Việt Nam trong trường hợp là đại diện có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài hoặc đại diện không có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài nhưng thường xuyên thực hiện việc giao hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ tại Việt Nam.
– Nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số mà thông qua đó doanh nghiệp nước ngoài tiến hành cung cấp hàng hóa, dịch vụ tại Việt Nam.
d) Tổ chức kinh tế được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng.
đ) Các đơn vị sự nghiệp công lập, ngoài công lập sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định tại Điều 3 Nghị định này.
e) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo quy định của Luật Hợp tác xã;
g) Tổ chức khác ngoài tổ chức quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản này có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập chịu thuế theo quy định tại Điều 3 Nghị định này.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đề xuất, tổ chức được thành lập và hoạt động (hoặc đăng ký hoạt động) theo quy định của pháp luật Việt Nam (bao gồm cả tổ chức quản lý sàn giao dịch thương mại, tổ chức quản lý nền tảng số) là người nộp thuế theo phương pháp khấu trừ tại nguồn trong trường hợp mua hàng hóa, dịch vụ (kể cả mua dịch vụ gắn với hàng hóa, mua hàng hóa được cung cấp, phân phối theo hình thức xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ, kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số hoặc theo các điều khoản thương mại quốc tế) trên cơ sở hợp đồng ký kết với doanh nghiệp nước ngoài quy định tại các điểm c, d khoản 2 Điều 2 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi). Bộ Tài chính quy định cụ thể nghĩa vụ thuế quy định tại khoản này.
Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.
Tuệ Văn
Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ
Nguyễn Thị Thu Hường bán hàng hiệu online doanh thu hơn 834 tỷ đồng nhưng trốn thuế 12,5 tỷ đồng nên bị cảnh sát tạm giữ để điều tra.
Ngày 10/7, Công an TP. Hà Nội cho biết Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định tạm giữ hình sự đối với Nguyễn Thị Thu Hường (38 tuổi, trú tại phường Láng, Hà Nội) để điều tra về hành vi trốn thuế.
Trước đó, thông qua công tác nắm tình hình liên quan đến hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, cụ thể là việc kinh doanh, cung cấp dịch vụ, hàng hóa trên các nền tảng mạng xã hội, Phòng Cảnh sát kinh tế đã phát hiện Nguyễn Thị Thu Hường có dấu hiệu trốn thuế.
Qua xác minh, lực lượng chức năng làm rõ: từ năm 2020 đến nay, Hường đã thực hiện bán nhiều loại hàng hóa như phụ kiện, túi xách, đồng hồ, kim cương… thuộc nhiều thương hiệu nổi tiếng trên thế giới như Versace, Louis Vuitton, Cartier, Hermes…. Các hoạt động bán hàng được tổ chức thông qua các tài khoản fanpage Facebook có tên “Hyclothet – New things by hy”, hội nhóm kín bán hàng riêng “Hycloset – Hang Hieu Authentic” và nhóm chat Zalo “Vip Hycloset”.
Bước đầu, cơ quan chức năng xác định hoạt động kinh doanh của Nguyễn Thị Thu Hường phát sinh doanh thu đặc biệt lớn, với tổng số tiền hơn 834 tỷ đồng. Tuy nhiên, nghi phạm đã không thực hiện kê khai và nộp thuế theo quy định pháp luật, trốn thuế số tiền hơn 12,5 tỷ đồng.
Để làm rõ vụ việc, cơ quan điều tra đã triệu tập Nguyễn Thị Thu Hường cùng sáu nhân viên có vai trò chốt đơn, đóng hàng, kiểm tra tin nhắn, thực hiện quảng cáo. Tại cơ quan công an, các nghi phạm đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội liên quan.
Đáng chú ý, trước đó, ngày 9/7, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Hà Nội đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị Thu Hường, địa điểm livestream bán hàng, kho hàng, và thu giữ nhiều tang vật gồm túi xách, đồng hồ, kim cương, phụ kiện thuộc các thương hiệu thời trang nổi tiếng, với tổng giá trị ước tính gần 10 tỷ đồng. Phần lớn số hàng hóa này không có hóa đơn chứng từ, không rõ nguồn gốc xuất xứ.
Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra đang tiếp tục mở rộng điều tra, xử lý các đối tượng liên quan theo đúng quy định pháp luật.
Tiểu Vy
Nguồn: vietnamfinance.vn
Chính phủ ban hành Nghị định số 199/2025/NĐ-CP ngày 8/7/2025 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 26/2023/NĐ-CP về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan. Nghị định sửa đổi này có hiệu lực từ ngày 8/7/2025.
Nghị định 199/2025/NĐ-CP sửa đổi điều kiện về sản lượng tối thiểu để được áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với linh kiện ô tô nhập khẩu theo Chương trình ưu đãi thuế. Quy định này nhằm hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô, đặc biệt là các dòng xe thân thiện với môi trường.
Cụ thể, Nghị định 199/2025/NĐ-CP bổ sung điểm c.3.6 và c.3.7 vào khoản 3 Điều 8 Nghị định 26/2023/NĐ-CP:
Trường hợp doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe ô tô sử dụng nhiên liệu xăng, dầu xét ưu đãi theo điểm c.3.2, c.3.3, c.3.4 khoản này có sản xuất, lắp ráp thêm xe ô tô chạy điện, xe ô tô sử dụng pin nhiên liệu, xe ô tô hybrid, xe ô tô sử dụng nhiên liệu sinh học hoàn toàn, xe ô tô sử dụng khí thiên nhiên thì được cộng số lượng xе ô tô chạy điện, xe ô tô sử dụng pin nhiên liệu, xe ô tô hybrid, xe ô tô sử dụng nhiên liệu sinh học hoàn toàn, xe ô tô sử dụng khí thiên nhiên trong kỳ xét ưu đãi vào sản lượng chung tối thiểu và sản lượng riêng tối thiểu của từng nhóm xe, mẫu xe sử dụng nhiên liệu xăng, dầu tương ứng để xác định sản lượng chung tối thiểu và sản lượng riêng tối thiểu của nhóm xe, mẫu xe khi xét ưu đãi.
Trường hợp doanh nghiệp nắm giữ trên 35% vốn điều lệ của các công ty sản xuất, lắp ráp xe ô tô đã được Bộ Công Thương cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, lắp ráp ô tô (gọi tắt là doanh nghiệp sở hữu) thì các công ty sản xuất, lắp ráp xe ô tô nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định được cộng gộp sản lượng xe ô tô sản xuất, lắp ráp của các công ty đó để tính sản lượng tối thiểu khi xét điều kiện hưởng ưu đãi của Chương trình ưu đãi thuế. Doanh nghiệp sở hữu chịu trách nhiệm về việc xác định tổng sản lượng của các công ty sản xuất, lắp ráp xe ô tô đủ điều kiện áp dụng Chương trình ưu đãi thuế và tỷ lệ nắm giữ vốn điều lệ trên 35% trong kỳ xét ưu đãi thuế.
Cơ quan hải quan nơi công ty sản xuất, lắp ráp xe ô tô đăng ký tham gia Chương trình ưu đãi thuế thực hiện hoàn thuế tương ứng với sản lượng xe ô tô do công ty đó sản xuất, lắp ráp đã xuất xưởng trong kỳ xét ưu đãi. Trường hợp doanh nghiệp sở hữu, công ty sản xuất, lắp ráp xe ô tô kê khai không đúng thực tế thì bị truy thu thuế và xử phạt vi phạm pháp luật về thuế.
Ngoài ra, Nghị định 199/2025/NĐ-CP cũng tăng mức thuế suất thuế xuất khẩu, mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng quy định tại Phụ lục I – Biểu thuế xuất khẩu, Phụ lục II – Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo Danh mục mặt hàng chịu thuế ban hành kèm theo Nghị định số 26/2023/NĐ-CP.
Cụ thể, mã hàng Phospho vàng sẽ áp dụng mức thuế suất thuế xuất khẩu 10% từ ngày 01/01/2026; và tiếp tục tăng lên thành 15% từ ngày 01/01/2027 (hiện nay đang áp dụng mức thuế suất là 5%).
Được biết, Phospho vàng là nguyên liệu đầu vào quan trọng trong nhiều lĩnh vực, từ sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đến công nghệ cao như bán dẫn và pin lithium. Việc điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu nhằm bảo vệ tài nguyên quốc gia, giảm thiểu tác động môi trường và hướng đến định hướng phát triển các ngành công nghiệp chiến lược như sản xuất chip bán dẫn, pin xe điện và hóa chất công nghiệp cao cấp.
Mức thuế suất thuế nhập khẩu 0% đối với mã hàng Tấm thép đen (tôn đen) cán để tráng thiếc (Tin – mill blackplate – TMВР) sẽ chỉ được duy trì từ nay đến hết tháng 8/2025. Từ ngày 01/9/2025, mức thuế suất đối với mã hàng này sẽ tăng lên 7%.
Áp dụng ngay mức thuế suất thuế nhập khẩu 2% đối với: Polyetylen chứa các monomer alpha-olefin từ 5% trở xuống; Polyetylen có trọng lượng riêng từ 0,94 trở lên; Các copolyme etylene-alpha-olefin, có trọng lượng riêng dưới 0,94,… Trước đó, các mã hàng này được áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu 0%.
Tuyết Thư
Nguồn: www.chinhphu.vn
Nghị định số 117/2025/NĐ-CP ban hành đã đáp ứng được mục tiêu trong công tác quản lý thuế đối với mô hình kinh doanh thương mại điện tử (TMĐT), đảm bảo các hộ, cá nhân kinh doanh trên nền tảng TMĐT và nền tảng số thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế như các đối tượng kinh doanh khác.
Tuy nhiên, có một số lưu ý đối với tổ chức thực hiện khấu trừ, khai, nộp thuế thay đối với hộ, cá nhân có hoạt động kinh doanh trên nền tảng TMĐT.
Kinh doanh trên nền tảng TMĐT và nền tảng số thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế như các đối tượng kinh doanh khác.
Bên cạnh việc tăng cường trách nhiệm của các tổ chức trung gian, tổ chức quản lý sàn TMĐT, nền tảng số trong việc hỗ trợ cơ quan thuế thực hiện quản lý thu thuế, cơ quan thuế cần tận dụng dữ liệu và công nghệ của các tổ chức quản lý sàn TMĐT và nền tảng số để giám sát các hoạt động giao dịch trực tuyến; Ttạo điều kiện thuận lợi cho các hộ, cá nhân kinh doanh giảm bớt thủ tục hành chính, thực hiện nghĩa vụ nộp thuế dễ dàng hơn, khuyến khích sự tự nguyện tuân thủ nghĩa vụ thuế của hộ, cá nhân kinh doanh. Ngăn chặn các hình thức trốn thuế khi kinh doanh trên nền tảng TMĐT và nền tảng số.
Ngoài ra, nội dung trọng tâm tại Nghị định 117/2025/NĐ-CP thể hiện ở phương thức quản lý thuế mới, quy định phạm vi trách nhiệm và cách thức các tổ chức quản lý sàn giao dịch TMĐT, quản lý nền tảng số và các tổ chức có hoạt động kinh tế số khác thực hiện khấu trừ, nộp thuế thay, kê khai số thuế đã khấu trừ đối với các giao dịch kinh doanh trên nền tảng TMĐT, nền tảng số của các hộ, cá nhân.
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ người nộp thuế, Cục Thuế đã xây dựng sổ tay hướng dẫn kê khai, nộp thuế đối với hoạt động TMĐT theo từng đối tượng, cụ thể: (i) Sổ tay hướng dẫn chi tiết việc khai, nộp thuế đối với sàn TMĐT, nền tảng số trong nước; (ii) Sổ tay hướng dẫn chi tiết việc khai, nộp thuế đối với sàn TMĐT, nền tảng số nước ngoài; (iii) Sổ tay hướng dẫn chi tiết việc khai, nộp thuế đối với hộ, cá nhân cư trú kinh doanh trên sàn TMĐT, nền tảng số; (iv) Sổ tay hướng dẫn chi tiết việc khai, nộp thuế đối với cá nhân không cư trú có phát sinh doanh thu bán hàng hóa dịch vụ tiêu dùng tại Việt Nam trên sàn TMĐT, nền tảng số không có chức năng thanh toán.
Trong quá trình triển khai thực hiện khấu trừ, khai, nộp thuế thay đối với hộ, cá nhân có hoạt động kinh doanh trên nền tảng TMĐT, tổ chức khấu trừ lưu ý một số nội dung sau:
Một là, về việc cấp MST khấu trừ, nộp thay: Để được cấp MST khấu trừ, nộp thay, tổ chức khấu trừ cung cấp thông tin về việc quản lý nền tảng TMĐT có chức năng thanh toán thuộc trường hợp khấu trừ, nộp thay thuế đối với hộ, cá nhân có hoạt động kinh doanh trên nền tảng TMĐT của mình cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý.
Hai là, tiếp nhận các thông tin của hộ, cá nhân kinh doanh: Theo quy định tại Nghị định số 117/2025/NĐ-CP quy định trách nhiệm của hộ, cá nhân cung cấp các thông tin cho tổ chức quản lý nền tảng TMĐT để thực hiện khấu trừ, nộp thay như sau:
(i) Cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin mã số thuế hoặc số định danh cá nhân (đối với công dân Việt Nam); số hộ chiếu hoặc thông tin định danh do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp (đối với công dân nước ngoài) và các thông tin bắt buộc đối với người bán theo quy định của pháp luật về TMĐT;
(ii) Cung cấp chính xác, đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế phải nộp. Do đó, tổ chức khấu trừ yêu cầu các hộ, cá nhân có hoạt động kinh doanh trên nền tảng TMĐT do mình quản lý phải cung cấp các thông tin nêu trên để tổ chức khấu trừ xác định chính xác nghĩa vụ thuế khấu trừ của hộ, cá nhân đó.
Trong đó, người nộp thuế cần lưu ý: Theo quy định tại Thông tư số 86/2024/TT-BTC, từ 1/7/2025 hộ, cá nhân sẽ sử dụng số định danh cá nhân làm mã số thuế. Cơ quan thuế sẽ tự động đồng bộ thông tin MST và số CCCD 12 số.
Vì vậy, để tránh phát sinh vướng mắc liên quan đến MST cá nhân, cơ quan thuế đề nghị tổ chức khấu trừ thực hiện rà soát lại thông tin hộ, cá nhân bán hàng trên nền tảng TMĐT thuộc phạm vi quản lý, trường hợp chưa cập nhật thông tin CCCD 12 số (vẫn dùng CMND 9 số) thì yêu cầu hộ, cá nhân đăng ký thay đổi thông tin thuế sang CCCD 12 số trước 1/7/2025.
Ba là, về trả lại tiền thuế đã khấu trừ của đơn hàng bị hủy, trả lại: Căn cứ quy định: “Thực hiện trả đầy đủ, kịp thời số tiền thuế đã khấu trừ, nộp thay của các đơn hàng bị hủy hoặc trả lại” tại khoản 6 Điều 7 Nghị định số 117/2025/NĐ-CP”, trường hợp trong kỳ khai thuế, hộ, cá nhân có phát sinh số thuế đã khấu trừ của đơn hàng bị hủy hoặc bị trả lại cao hơn số thuế đã khấu trừ của các đơn hàng phát sinh trong kỳ.
Sau khi thực hiện bù trừ số thuế đã khấu trừ của đơn hàng hủy, trả lại với số thuế đã khấu trừ của đơn hàng phát sinh trong kỳ khai thuế, tổ chức khấu trừ trả lại số tiền chênh lệch cho hộ, cá nhân bị khấu trừ.
Nhung Nhung
Nguồn: https://www.gdt.gov.vn
VAFI cho rằng, đề xuất cá nhân nhận cổ phiếu trả bằng cổ tức ngay lập tức phải nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và công ty kê khai, nộp thuế thay cho cổ đông là chưa phù hợp.
Trong kiến nghị gửi đến Thủ tướng Chính phủ và Bộ Tài chính, Hiệp hội các Nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) đã có những đề xuất góp ý về dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 126 năm 2020 hướng dẫn Luật quản lý thuế.
Đáng chú ý, đó là vấn đề liên quan đến việc nộp thuế TNCN khi nhận được cổ phiếu thưởng và công ty kê khai, nộp thuế thay cho cổ đông.
Theo đó, VAFI cho rằng bản chất của thuế TNCN là hoạt động kinh doanh phải có lãi hay có thu nhập thì mới đánh thuế. Và việc nhận cổ phiếu thưởng có lãi thì mới tính thuế, và khoản thuế này được xác định khi nhà đầu tư bán cổ phiếu thưởng.
Bên cạnh đó, VAFI cho biết, hệ thống của Sở giao dịch Chứng khoán, Trung tâm lưu ký và các công ty chứng khoán đều dễ dàng tính được số lượng, giá vốn cổ phiếu thưởng nên sẽ không gặp nhiều khó khăn khi xác định việc bán cổ phiếu này có lãi hay lỗ.
“Cá nhân nắm giữ cổ phiếu thưởng, chưa bán thì không thể coi là đã có thu nhập và càng không thể coi họ là đối tượng nợ thuế TNCN”, VAFI nêu quan điểm.
Về vấn đề công ty trả cổ phiếu thưởng, cổ tức có trách nhiệm kê khai, khấu trừ thay cho các cổ đông, VAFI nhìn nhận doanh nghiệp phát hành không thể thực hiện chức năng nộp thuế thay cho nhà đầu tư bởi chưa đúng với quy định tại Luật doanh nghiệp và trái với nguyên tắc tài chính, quản trị doanh nghiệp.
“Doanh nghiệp đóng thuế cổ tức tiền mặt cho nhà đầu tư là từ tiền của nhà đầu tư chứ không phải tiền của doanh nghiệp”, VAFI nêu bản chất.
Với quy định hồi tố của Nghị định về việc công ty, tổ chức phát hành cổ phiếu thưởng có trách nhiệm kê khai, nộp thuế thay cho NĐT đối với tất cả cổ phiếu thưởng chưa bán sau ngày Nghị định mới có hiệu lực, VAFI đánh giá thông tin này có nguy cơ làm rối loại thị trường chứng khoán vì nhà đầu tư sẽ phải bán tài sản đi để trả cho khoản “gọi là thuế TNCN còn nợ”.
Trường hợp, nếu công ty phát hành cổ phiếu thưởng phá sản, giải thể thì các NĐT phải tự kê khai và nộp thuế phần cổ phiếu còn nắm giữ, theo VAFI thực tế nhiều năm qua, đã có hàng trăm ngàn các NĐT nhận cổ phiếu thưởng nhưng sau đó doanh nghiệp thua lỗ, giải thể, phá sản … khiến họ mất hết vốn, và cũng nhiều tình huống không thể bán được số cổ phiếu này.
“Vậy việc họ bị coi là đối tượng nợ thuế TNCN do sở hữu cổ phiếu thưởng của các công ty này đã hợp lý hay chưa, đã có tiền lệ các quốc gia nào trên thế giới triển khai hay chưa. Mất hết vốn đầu tư mà còn bị coi là đối tượng nợ thuế”, đại diện VAFI đặt câu hỏi.
Do đó, VAFI đề xuất thời điểm xác định có thu thuế TNCN đối với cá nhân sở hữu cổ phiếu thưởng là thời điểm nhà đầu tư bán cổ phiếu này. Nếu lãi, thì thu thuế theo quy định hiện hành, tổng giá trị cổ phần bán ra theo mệnh giá nhân với thuế suất 5%. Trường hợp nhận cổ phiếu thưởng mà thua lỗ, thì không bị đánh thuế.
Ngoài ra, VAFI cũng nêu quan điểm, chính sách hiện hành về thuế chứng khoán cho NĐT cá nhân đang cao hơn nhiều so với tổ chức đầu tư, kinh doanh chứng khoán. Cụ thể, NĐT cá nhân đang chịu thuế theo phương thức khoán 0,1% x tổng giá trị giao dịch, trong khi tổ chức đầu tư không chịu khoản thuế này và nhóm này cũng không chịu thuế cổ tức tiền mặt và thuế cổ phiếu thưởng 5%.
“Về lâu dài, Bộ Tài chính xem xét cơ chế Capital Gain Tax cho thuế giao dịch chứng khoán để khắc phục tình trạng đầu tư thua lỗ mà vẫn phải chịu thuế. Phải có thu nhập thì mới đóng thuế”, VAFI kết luận.
Trước đó, tại dự thảo sửa Nghị định 126 quy định một số điều của Luật Quản lý thuế, Bộ Tài chính cho biết cần quy định rõ thời điểm khấu trừ, kê khai thuế với thu nhập từ cổ tức, thưởng bằng chứng khoán để hạn chế lợi dụng chính sách, kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ thuế.
Vì vậy, Bộ Tài chính đề xuất thuế thu nhập cá nhân phải được khấu trừ, kê khai và nộp ngay tại thời điểm nhận cổ tức, thưởng bằng chứng khoán, thay vì đợi đến khi bán chứng khoán. Cơ quan này cũng đề xuất rằng tổ chức phát hành có trách nhiệm khấu trừ, nộp thay thuế cho cá nhân.
Theo Bộ Tài chính, cổ tức, lợi tức đang được chi trả bằng nhiều hình thức như bằng tiền mặt, chứng khoán hoặc ghi tăng vốn góp.
Xuân Thạch
Nguồn: vietnamfinance.vn
Theo Chi cục Thuế thương mại điện tử (Cục Thuế), đã có nhiều sàn giao dịch thương mại điện tử (TMĐT) đã sẵn sàng về hạ tầng kỹ thuật và chính thức triển khai việc khấu trừ, nộp thay thuế từ ngày 1/7/2025.
Còn đối với cơ quan thuế, hệ thống tiếp nhận tờ khai điện tử từ các tổ chức trong và ngoài nước đã được hoàn thiện sẵn sàng và chính thức vận hành.
Các sàn giao dịch TMĐT đã sẵn sàng về hạ tầng kỹ thuật và chính thức triển khai việc khấu trừ, nộp thay thuế từ ngày 1/7/2025.
Quy định chặt chẽ trách nhiệm trong khấu trừ thuế
Ngày 09/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2025/NĐ-CP (Nghị định 117) quy định về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh trên nền tảng TMĐT, nền tảng số của hộ, cá nhân kinh doanh. Theo đó, từ ngày 01/7/2025, tổ chức là nhà quản lý sàn giao dịch TMĐT, nền tảng số trong và ngoài nước có chức năng thanh toán sẽ có trách nhiệm khấu trừ, kê khai và nộp thay thuế GTGT, thuế TNCN cho hộ, cá nhân kinh doanh có hoạt động bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ trên nền tảng do mình vận hành.
“Cục Thuế khẳng định sẽ tiếp tục đồng hành, phối hợp chặt chẽ với DN trong quá trình thực hiện Nghị định số 117/2025/NĐ-CP, đảm bảo việc triển khai chính sách được thông suốt, đúng quy định và hiệu quả trên thực tế.” |
Theo Nghị định 117, thời điểm thực hiện khấu trừ là ngay tại thời điểm xác nhận giao dịch thành công và chấp nhận thanh toán. Số thuế phải khấu trừ được xác định theo tỷ lệ phần trăm trên doanh thu theo quy định tại Nghị định. Tổ chức thực hiện khấu trừ có trách nhiệm đăng ký sử dụng chứng từ khấu trừ thuế với cơ quan thuế và cấp chứng từ khấu trừ thuế điện tử theo năm cho hộ, cá nhân kinh doanh.
Trong trường hợp giao dịch bị hủy hoặc hàng hóa bị trả lại, số thuế đã kê khai và nộp sẽ được bù trừ vào kỳ kê khai tiếp theo. Đồng thời, các tổ chức này phải lưu trữ dữ liệu liên quan đến nghĩa vụ thuế đã khấu trừ để phục vụ kiểm tra, đối chiếu theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Việc kê khai, nộp thuế thay được thực hiện định kỳ hàng tháng, chậm nhất vào ngày 20 của tháng kế tiếp. Như vậy, ngày 20/8/2025 sẽ là thời hạn kê khai, nộp thuế thay đầu tiên đối với giao dịch phát sinh trong tháng 7/2025. Tổ chức thực hiện khấu trừ được cơ quan thuế cấp mã số thuế riêng để thực hiện khai và nộp thuế thay theo quy định.
Trường hợp nền tảng không có chức năng thanh toán, không thuộc diện khấu trừ, nộp thay, thì vẫn có trách nhiệm cung cấp thông tin định kỳ về hoạt động của hộ, cá nhân kinh doanh theo quy định tại Nghị định 91/2022/NĐ-CP.
Hộ, cá nhân kinh doanh không thuộc diện được sàn, nền tảng khấu trừ và nộp thay (ví dụ: kinh doanh qua mạng xã hội, website riêng hoặc nền tảng không thanh toán) sẽ thực hiện đăng ký thuế, kê khai và nộp thuế trực tiếp với cơ quan thuế theo quy định. Cá nhân cư trú khai theo tháng hoặc từng lần phát sinh, cá nhân không cư trú khai từng lần phát sinh. Hồ sơ khai thuế, nộp thuế và hoàn thuế thực hiện theo mẫu của Bộ Tài chính và có thể nộp trực tiếp hoặc qua Cổng thông tin điện tử của cơ quan thuế.
Trường hợp hộ, cá nhân đã bị khấu trừ và nộp thay trong năm nhưng tổng doanh thu của toàn bộ hoạt động kinh doanh (bao gồm TMĐT và truyền thống) dưới mức không chịu thuế (từ năm 2025: dưới 100 triệu đồng/năm; từ 01/01/2026: dưới 200 triệu đồng/năm), thì sẽ được hoàn lại số thuế đã nộp. Hộ, cá nhân kinh doanh có trách nhiệm cung cấp thông tin chính xác cho nền tảng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nghĩa vụ thuế của mình. Trường hợp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế sẽ bị xử lý vi phạm theo quy định hiện hành của pháp luật về quản lý thuế.
Nhiều giải pháp quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử.
Chuẩn bị công phu, triển khai đồng bộ phù hợp thực tiễn
Để chuẩn bị cho sự ra đời của Nghị định 117/2025/NĐ-CP, ngay từ quá trình xây dựng, Cục Thuế đã tổ chức họp với các sàn TMĐT, DN liên quan để xin ý kiến về nội dung dự thảo và chủ động chuẩn bị cơ sở vật chất, nâng cấp hệ thống ứng dụng nhằm bảo đảm đáp ứng yêu cầu triển khai ngay khi Nghị định chính thức có hiệu lực.
Đồng thời, Cục Thuế đã tổ chức chương trình hỗ trợ trực tuyến cho dành cho hộ, cá nhân kinh doanh có doanh thu từ livestream, bán hàng trên sàn TMĐT và nền tảng số; phối hợp với Trung tâm Phát triển TMĐT và Công nghệ số (eComDX), Bộ Công thương, nền tảng TikTok Việt Nam, Ngân hàng BIDV và các đơn vị tư vấn tổ chức đào tạo pháp lý, thuế cho TikToker bán hàng trên sàn TMĐT.
Song song với đó, Cục Thuế đã xây dựng Sổ tay hướng dẫn người nộp thuế và phối hợp với báo chí, truyền hình thực hiện tuyên truyền, phổ biến chính sách mới ngay từ quá trình sư khai dự thảo, xin ý kiến và quá trình hoàn thiện dự thảo Nghị định trình Bộ Tài chính trình Chính phủ.
Để giới thiệu rộng rãi nội dung mới của Nghị định, Cục Thuế đã ban hành Công văn số 1735/CT-CS ngày 13/6/2025, đồng thời tổ chức các hội nghị trao đổi, hướng dẫn chính sách quy định tại Nghị định 117 cho toàn bộ các DN quản lý sàn TMĐT theo hình thức trực tuyến tại các điểm cầu Thuế tỉnh, thành phố.
Với mục tiêu lan tỏa các các quy định và chính sách thuế mới đến với người dân, doanh nghiệp và trực tiếp giải đáp các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện từ phía người nộp thuế và các tổ chức, cá nhân liên quan, ngày 03/7/2025, Cục Thuế đã tham gia chương trình livestream “1001 câu hỏi về thuế từ 01/7” do Đài Truyền hình Việt Nam (VTV1) tổ chức.
Đặc biệt, ngày 07/7/2025, Cục Thuế đã tổ chức Hội nghị trao đổi, hướng dẫn chính sách quy định tại Nghị định 117 về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh trên nền tảng số của hộ, cá nhân tại trụ sở Cục Thuế và kết nối trực tuyến với các điểm cầu tại Thuế tỉnh, thành phố, với sự tham dự của các tổ chức quản lý nền tảng TMĐT trong và ngoài nước.
Tại hội nghị, Cục Thuế đã trình bày những điểm mới trọng tâm của Nghị định 117, trong đó tập trung vào quy định về trách nhiệm khấu trừ, kê khai và nộp thay thuế đối với hộ, cá nhân kinh doanh trên nền tảng TMĐT. Đồng thời, Cục Thuế cũng đã giới thiệu Sổ tay hướng dẫn chi tiết việc khai, nộp thuế, giúp các DN và cơ quan thuế nắm bắt đầy đủ, triển khai thống nhất và đúng quy định.
Hội nghị cũng dành thời gian giải đáp nhiều vướng mắc từ phía DN, tập trung vào việc xác định đối tượng khấu trừ, thủ tục kê khai, nộp thay thuế, cấp mã số thuế khấu trừ, phối hợp cung cấp thông tin, cũng như xử lý các giao dịch trên nền tảng không có chức năng thanh toán, nhằm tạo thuận lợi cho quá trình kê khai, nộp thuế và tuân thủ chính sách mới.
Về phía DN, nhiều sàn giao dịch TMĐT cho biết đã sẵn sàng về hạ tầng kỹ thuật và chính thức triển khai việc khấu trừ, nộp thay thuế từ ngày 01/7/2025. Về phía cơ quan thuế, hệ thống tiếp nhận tờ khai điện tử từ các tổ chức trong và ngoài nước đã được hoàn thiện và sẵn sàng vận hành.
Cục Thuế khẳng định sẽ tiếp tục đồng hành, phối hợp chặt chẽ với DN trong quá trình thực hiện Nghị định số 117/2025/NĐ-CP, đảm bảo việc triển khai chính sách được thông suốt, đúng quy định và hiệu quả trên thực tế.
Phát huy hiệu quả của việc kê khai thuế điện tử Tổng số Nhà cung cấp nước ngoài đã đăng ký thuế, kê khai và nộp thuế qua Cổng thông tin điện tử dánh cho Nhà cung cấp nước ngoài từ thời điểm kê khai, vận hành là 159 Nhà cung cấp nước ngoài, đã thực hiện kê khai, nộp thuế đạt 5,687 nghìn tỷ đồng.Cổng thông tin điện tử dành cho hộ, cá nhân kinh doanh đăng ký, kê khai nộp thuế đã có 137 nghìn hộ, cá nhân kinh doanh thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế trên cổng với số tiền gần 1,8 nghìn tỷ đồng, tăng 55,1% so với tháng 5 năm 2025 do trong tháng 6 năm 2025 cơ quan thuế đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội hỗ trợ hộ, cá nhân kinh doanh kê khai, nộp thuế trên Cổng 888. |
Thanh Thanh
Nguồn: https://www.gdt.gov.vn
Việt Nam nằm trong danh sách các nước được loại trừ do thỏa mãn tiêu chí có lượng nhập khẩu dưới 3% vào Cộng hòa Nam Phi.
Theo Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), Phái đoàn Việt Nam tại Geneva cho biết Ủy ban Quản lý Thương mại quốc tế Nam Phi (ITAC) đã ban hành thông báo áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời đối với sản phẩm thép cuộn chống ăn mòn (còn được gọi là Corrosion resistant steel coil) nhập khẩu vào Khối Liên minh hải quan Nam Phi (SACU). Trong đó, Việt Nam được loại trừ khỏi biện pháp do là quốc gia đang phát triển có thị phần nhập khẩu dưới 3%.
Sản phẩm bị điều tra là Thép cuộn chống ăn mòn (Corrosion resistant steel coil) được phân loại theo mã hàng hóa nhập khẩu của Cộng hòa Nam Phi 7210.61.20, 7210.61.30, 7225.92.25 và 7225.92.35. Ngày khởi xướng điều tra là ngày 17/1/2025 (vụ việc đã được khởi xướng ngày 27/12/2024 trước đó, nhưng sau đó đã được chấm dứt và khởi xướng lại cùng ngày). Giai đoạn điều tra từ tháng 5/2021 đến tháng 4/2024.
Trong thông báo Kết luận sơ bộ, Ủy ban Quản lý Thương mại quốc tế Nam Phi cho rằng lượng nhập khẩu có sự gia tăng mạnh, đột ngột, rõ nét và gần trong giai đoạn điều tra, với mức gia tăng 17,16% từ năm 2022 đến 2023. Lượng nhập khẩu chủ yếu đến từ Trung Quốc.
Ngoài ra, Ủy ban Quản lý Thương mại quốc tế Nam Phi sơ bộ kết luận rằng ngành sản xuất của SACU đã phải đối mặt với thiệt hại nghiêm trọng trong thời kỳ điều tra. Các chỉ tiêu như sản lượng, doanh số bán hàng trong nước, lợi nhuận, thị phần, tỉ lệ sử dụng công suất và nhân công đều suy giảm đáng kể trong giai đoạn điều tra.
Mặc dù có một số nguyên nhân khác góp phần gây ra thiệt hại, như việc suy giảm cầu đối với thép, giảm đầu tư cơ sở hạ tầng, gia tăng chi phí đầu vào, hạn chế về logistics và cung cấp năng lượng… nhưng đây không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại của ngành sản xuất trong nước.
ITAC cho rằng một số yếu tố sau đã dẫn tới sự gia tăng hàng nhập khẩu đột ngột vào Cộng hòa Nam Phi, như sự dư thừa công suất và suy thoái kinh tế ở Trung Quốc kể từ năm 2021 đã dẫn tới việc gia tăng xuất khẩu vào Cộng hòa Nam Phi.
Thuế quan mà các quốc gia sử dụng áp dụng để bảo vệ ngành sản xuất thép trong nước dẫn đến hoạt động xuất khẩu thép của Trung Quốc đã được chuyển hướng sang các quốc gia có mức thuế thấp hơn. Căn cứ nội dung trên, ITAC đề xuất áp dụng mức thuế tự vệ tạm thời ở mức 52,34% trong thời gian 200 ngày cho đến khi có kết luận cuối cùng của vụ việc.
Về loại trừ khỏi biện pháp tự vệ, theo quy định của WTO, các quốc gia đang phát triển có thị phần nhập khẩu dưới 3% và tổng lượng nhập khẩu của các quốc gia này không lớn hơn 9% có thể được loại trừ khỏi biện pháp tự vệ. Việt Nam nằm trong danh sách các nước được loại trừ do thỏa mãn tiêu chí có lượng nhập khẩu dưới 3% vào Cộng hòa Nam Phi.
Theo Cục Phòng vệ thương mại, kết quả sơ bộ trên góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục duy trì xuất khẩu sản phẩm thép chống ăn mòn sang khối SACU trong thời gian tới. Các doanh nghiệp và hiệp hội cần tiếp tục theo dõi diễn biến vụ việc cho đến khi có kết luận cuối cùng.
Anh Thơ
Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ
Cục Thuế (Bộ Tài chính) đã ban hành Công văn số 2308/CT-CS ngày 7/7/2025 gửi các địa phương Thuế TP. Hà Nội, Thuế TP.HCM và Thuế tỉnh Đồng Nai về việc giảm tiền thuê đất theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.