Nỗi khổ kéo dài nhiều năm: ‘Đóng rồi lại xin hoàn VAT, làm tắc dòng tiền’

Thời gian đọc: 7 phút

Nhiều doanh nghiệp nông sản cho rằng cơ chế “nộp rồi hoàn” thuế VAT 5% đối với hàng xuất khẩu không chỉ tạo ra khối lượng thủ tục khổng lồ mà còn khiến dòng tiền bị “giam lỏng”, gia tăng rủi ro tài chính.

Các chuyên gia đề xuất cần chuyển sang áp dụng thuế suất 0% hoặc thuế khoán minh bạch, vừa giảm gánh nặng cho doanh nghiệp, vừa ngăn gian lận hoàn thuế.

Đóng rồi lại hoàn: Phức tạp mà không tạo ra giá trị

Diễn đàn Kinh tế tư nhân 2025 (VPSF 2025), ông Phan Minh Thông, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Phúc Sinh cho rằng việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu vào các vùng nguyên liệu sẽ giúp giải bài toán về giải cứu hàng hóa, dồn mùa vụ, giúp nâng cao giá trị, vị thế doanh nghiệp Việt Nam giải quyết công ăn việc làm.

Việt Nam là nước xuất khẩu số 2, số 3 nhiều nguyên liệu nông sản, buôn bán khắp nơi trên thế giới, nên ông Sinh cho rằng cần thành lập các sở giao dịch hàng hóa để tạo ra việc làm, thu hút nguồn vốn, chuẩn hóa doanh nghiệp để đảm bảo tính minh bạch, dữ liệu.

Mô hình này cũng tạo ra sản phẩm cho các trung tâm tài chính, hoạt động kinh doanh của công ty vừa và nhỏ.

Sản xuất, chế biến sâu hồ tiêu tại Công ty cổ phần Phúc Sinh.

Về tháo gỡ vấn đề thuế VAT, ông Thông cho hay từ 1/7, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản phải xuất hóa đơn với thuế suất VAT 5% và thực hiện hoàn thuế sau khi xuất khẩu.

Nhiều mặt hàng như hạt tiêu xuất khẩu trên 90%, cà phê trên 85%, hạt điều trên 80%. Việc phải đóng thuế VAT sau đó lại hoàn thuế đã tạo ra khối lượng công việc khổng lồ và mất thời gian.

“Việc đóng thuế như vậy không tạo ra giá trị. Ví dụ như với Phúc Sinh xuất khẩu mỗi tháng là 1.000 tỷ, nộp thuế VAT 50 tỷ sau đó lại hoàn thuế VAT 50 tỷ, làm mất nhiều thời gian. 

Một hồ sơ bị tắc nghẽn là cả bộ hồ sơ trả lại. Mỹ đã đánh thuế 20%, chúng ta lại đánh thuế 5%, tức là hai lần khó khăn. Vì vậy chúng tôi kiến nghị cần miễn thuế VAT với doanh nghiệp xuất khẩu nguyên liệu trên 80%”, ông Thông bày tỏ.

Ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn Intimex, một “ông lớn” trong xuất khẩu nông sản với doanh số hơn 1 tỷ USD/năm cho rằng, bản chất hàng xuất khẩu không chịu thuế VAT, nên việc phải đóng 5% rồi làm thủ tục hoàn là bất hợp lý và phiền hà.

“Nỗi lo lớn nhất của doanh nghiệp xuất khẩu là vốn bị giam lỏng, dòng tiền tắc nghẽn vì khoản thuế GTGT tạm ứng khổng lồ”, ông nói.

Ông Nam đưa ra ví dụ cụ thể: Intimex và các công ty thành viên mỗi tháng xuất khẩu tới 20.000 tấn cà phê với đơn giá 100.000 đồng/kg. Chỉ riêng khoản thuế GTGT tạm đóng đã lên tới 100 tỷ đồng/tháng.

Khoản tiền này bị “giam” trong suốt thời gian chờ hoàn thuế, khiến doanh nghiệp có nguy cơ cạn kiệt tiền mặt vào cuối năm. Đáng lo hơn, ngân hàng không cho vay đối với khoản tiền thuế đang chờ hoàn. Với các hợp đồng Chính phủ (G2G) kéo dài tới 3 năm, vấn đề dòng tiền càng trở nên trầm trọng.

“Trong bối cảnh thị trường thay đổi nhanh, việc vốn bị khóa như vậy chẳng khác nào tự trói tay mình”, ông Nam nhấn mạnh. Theo ông, áp dụng thuế khoán hoặc 0% ngay từ đầu sẽ giúp doanh nghiệp chủ động hơn, giảm áp lực tài chính, duy trì nhịp sản xuất – giao hàng và giảm nguy cơ đổ vỡ hợp đồng.

Áp dụng thuế suất 0% đầu vào hoặc thuế khoán minh bạch

Dưới góc độ pháp lý, Luật sư Lê Thị Nhung – Giám đốc Công ty Luật L&A Legal Experts phân tích, Luật Thuế GTGT hiện hành cho phép hoàn thuế đầu vào đối với hàng xuất khẩu để tránh đánh thuế trùng. Tuy nhiên, thực tế triển khai phức tạp, tốn thời gian và tiềm ẩn nhiều rủi ro.

“Chỉ cần một sai sót nhỏ trong hồ sơ, doanh nghiệp có thể bị kéo dài thời gian hoàn thuế hoặc bị truy thu. Với doanh nghiệp vừa và nhỏ, đây là áp lực không nhỏ”, bà nhận định.

Doanh nghiệp xuất khẩu kêu khó: ‘Đóng rồi hoàn thuế VAT chỉ làm tắc dòng tiền’.

Theo bà Nhung, áp dụng thuế suất 0% đầu vào hoặc thuế khoán minh bạch sẽ giảm đáng kể thủ tục, hạn chế cơ hội gian lận và vẫn đảm bảo nguồn thu ngân sách.

Nhưng để thực hiện hiệu quả, cần có hướng dẫn chi tiết và cơ chế giám sát chặt chẽ để phân biệt hàng xuất khẩu thực với hàng tiêu thụ nội địa giả danh xuất khẩu.

“Nếu thiết kế tốt, chính sách này không chỉ gỡ khó cho doanh nghiệp mà còn giúp cơ quan thuế tập trung vào công tác giám sát thay vì xử lý một khối lượng khổng lồ hồ sơ hoàn thuế”, bà nói.

Theo Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam (VPSA), năm 2024, sản lượng hồ tiêu cả nước đạt khoảng 200.000 tấn, trong đó hơn 95% được xuất khẩu. Lượng tiêu thụ nội địa chỉ chiếm khoảng 5% sản lượng, tương đương khoảng 5.000 tấn, chủ yếu là sản phẩm chế biến sâu và tiêu dùng trực tiếp. Với thuế suất VAT 5%, số thu từ thị trường trong nước chỉ khoảng 55 tỷ đồng.

Ngược lại, số tiền hoàn thuế VAT cho hồ tiêu xuất khẩu lên tới 2.135 tỷ đồng, tức cứ mỗi đồng thuế thu vào, ngân sách phải hoàn gần 39 đồng. Điều đáng nói là cơ chế này tạo ra áp lực kép cho cả doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý.

Doanh nghiệp buộc phải tạm ứng khoản VAT đầu vào lớn, chờ thủ tục hoàn thuế kéo dài, khiến vốn lưu động bị “đóng băng” đúng lúc cần xoay vòng để chốt đơn hàng.

Chênh lệch quá lớn giữa thu và hoàn cũng trở thành kẽ hở cho gian lận, đặc biệt với những hồ sơ xuất khẩu giả. Trong khi đó, cả doanh nghiệp và cơ quan thuế đều tiêu tốn thời gian, nhân lực để xử lý một thủ tục hành chính vừa phức tạp vừa kém hiệu quả.

Từ thực tế này, VPSA kiến nghị bỏ hẳn cơ chế hoàn thuế VAT đối với hồ tiêu xuất khẩu. Thay vào đó, áp dụng thuế suất 0% cho đầu vào phục vụ xuất khẩu hoặc thuế khoán khoảng 0,5% trên kim ngạch xuất khẩu. Với thị trường nội địa, vẫn duy trì VAT 5% để đảm bảo nguồn thu ngân sách.

Hiệp hội cho rằng, nếu làm vậy, doanh nghiệp sẽ giảm gánh nặng vốn, rút ngắn thời gian thủ tục và ngân sách cũng hạn chế được nguy cơ gian lận hoàn thuế.

Kỳ Thư

Nguồn: vietnamfinance.vn

spot_imgspot_img

BÀI MỚI